Người thơ, qua những tự họa

Hoài Nam 28/09/2018 19:00

Trên nhiều phương diện, Thơ Mới đã rất khác so với thơ của thời trung cận đại. Trong bài này, người viết muốn đề cập tới chỉ một cái khác: cái khác khi các nhà thơ của Thơ Mới tự nhìn chính mình như một thi sỹ nhìn một thi sỹ. Mượn cách diễn đạt của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý: cái khác khi họ nhìn “người thơ” từ những “mắt thơ”. Và đó cũng là một cách người thơ tự họa.

Người thơ, qua những tự họa

Có lẽ, không ai nói hay hơn tác giả của “Thi nhân Việt Nam” về một khía cạnh của sự khác biệt này: “Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đừng có tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của một thi hào đời xưa như Lý Thái Bạch, trong trời đất chỉ biết có thơ. Đến chút lòng tự trọng cần để khinh cảnh cơ hàn, họ cũng không có nữa: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ”. Không biết trong khi rên rỉ như thế Xuân Diệu có nghĩ đến Nguyễn Công Trứ, một người đồng quận, chẳng những đã đùa cảnh nghèo mà còn lấy cảnh nghèo làm vui”.

Quả có vậy. Thuở trước, nhà thơ, về cơ bản là nhà Nho. Đã là nhà Nho, họ thấm nhuần bốn chữ “an bần lạc đạo”. Họ coi thơ là phương tiện để giáo hóa, để chở đạo, để tỏ chí. Rất ít người xem việc làm thơ như một hành động giải trí, mang tính “văn nghệ”. Coi làm thơ là một nghề và có thể sống bằng nghề ấy thì tuyệt nhiên không có ai. Nhưng sang đến những thập niên đầu thế kỷ XX thì sự thể đã khác. Nghề in, báo chí và xuất bản phát triển đã làm hình thành một tầng lớp người sống và làm việc châu tuần quanh các tòa soạn báo và các nhà xuất bản, để, theo cách nói của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: “Buôn văn bán chữ kiếm tiền tiêu”. Hóa ra làm thơ cũng có thể có thu nhập. Tất nhiên, đó là một cái thu nhập còm cõi, còn lâu mới là đủ để nhà thơ trang trải những nhu cầu đời sống tối thiểu của mình và gia đình. Vì thế mà những tiếng kêu ai oán mới cất lên. Không chỉ Xuân Diệu kêu. Nguyễn Vỹ cũng kêu: “Thời thế bây giờ vẫn thấy khó/ Nhà văn An Nam khổ như chó/ Mỗi lần cầm bút nói văn chương/ Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương/ Và nhìn chúng mình hì hục viết/ Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết/ Mà thương cho tôi thương cho anh/ Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh” (Gửi Trương Tửu). Trần Huyền Trân cũng kêu: “Đã có lần khói bếp không lên/ Vợ ngược con xuôi túi hết tiền/ Chồng gục cả lòng trên giấy mực/ Đen ngòm mặt đất tối như đêm/ Trang lại trang máu lẫn mồ hôi/ Từng dòng tay bút đã buông xuôi/ Giữa khi ông chủ buôn văn ấy/ Tiệc rượu lầu cao ngả ngốn cười” (Đời một nhà văn). Và Nguyễn Bính thì cảnh báo con gái: “Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sỹ/ Nghèo lắm con ơi, bạc lắm con!” (Oan nghiệt).

Cũng nói về cảnh nghèo, nhưng rõ ràng trong tâm thế của người làm thơ thuở trước không có cái nét trì chiết đau đớn đến như vậy. Họ cao ngạo và khủng khỉnh hơn nhiều, như Nguyễn Công Trứ từng viết trong “Hàn nho phong vị phú”: “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cần no/ Đêm năm canh an giấc ngáy khò khò, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ”. (Xin được thêm một chút cho rõ hơn: trong các trích đoạn thơ Nguyễn Vỹ và Trần Huyền Trân ở trên, các tác giả nói “nhà văn” mà không nói “nhà thơ”. Nhưng sự thể không có gì khác: Nguyễn Vỹ và Trần Huyền Trân đều là những bút danh thơ. Vả lại thời ấy người ta không phân biệt rạch ròi nhà văn và nhà thơ, một bộ “Nhà văn hiện đại” của Vũ Ngọc Phan, gọi là “nhà văn” nhưng gồm đủ các “nhà” như ngày nay ta quan niệm: nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học v.v..., cứ làm việc với và bằng chữ nghĩa là đủ để gọi là nhà văn).

Nhưng đó chỉ là khía cạnh xã hội học của vấn đề. Xét trên phương diện mỹ cảm, quan niệm về “người thơ” của các nhà Thơ Mới cũng rất khác với thơ trung cận đại. Về đại thể, đó là con người trực tiếp đối diện với thế giới và đối diện với chính mình, đó là con người đã rũ bỏ gánh nặng phải làm một nhà luân lý với thơ và bằng thơ. Hoặc ít ra, đó là con người hoàn toàn tồn tại với tư cách là một cái tôi mang cảm xúc cá thể, chứ không phải một cái tôi đạo lý như trước. Diễn đạt cách khác, “người thơ” ở đây là người kiếm tìm những trải nghiệm cái đẹp thuần tuý. Anh ta, như Thế Lữ tự bạch trong bài “Cây đàn muôn điệu”, sẵn lòng cộng hưởng với tất thảy những tiếng gõ cửa của ngoại giới để được thỏa mãn tận độ các cảm giác của mình, và không cần quan tâm rằng nó có ích hay không có ích: “Tôi là người bộ hành phiêu lãng/ Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi/ Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cười/ Trong lúc gian lao, trong giờ sung sướng/ Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng/ Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than/ Cảnh thương tâm, ghê gớm, hay dịu dàng/ Cảnh rực rỡ, ái ân hay dữ dội... Tôi chỉ là một khách tình si/ Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể”. Thậm chí, đẩy tới mức cực đoan, có thể nói rằng chính sự vô tư, tính phi mục đích mới làm nên chân dung trọn vẹn của một “người thơ” đích thực, như một số nhà Thơ Mới quan niệm. Xuân Diệu mở đầu tập “Gửi hương cho gió” bằng những câu: “Tôi là con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hót chơi...

Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín/ Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa/ Hát vô ích thế mà chim vỡ cổ/ Héo tim xanh cho quá độ tài tình/ Ca ánh sáng bao lần dây máu đỏ/ Rồi một ngày sa rụng giữa bình minh/ Tôi réo rắt, chẳng qua trời bắt vậy/ Chiếc thuyền lòng, nước đẩy phải trôi theo/ Gió đã thổi, cho nên buồn phải dậy/ Hồn vu vơ, tội ấy ở mây đèo” (Lời thơ vào tập Gửi hương). Một quan điểm mang đậm màu sắc duy tâm chủ nghĩa: trở thành nhà thơ, đó là câu chuyện của số mệnh, không thể cưỡng lại được, cũng không thể cố mà được. Và khi đã mang trên mình cái danh phận thi sỹ, không còn cách nào khác, tựa như là con tằm thì phải nhả tơ, là con chim thì phải hót, nhà thơ phải trải lòng mình với tất thảy những niềm vui nỗi buồn bằng thơ, cho dẫu mỗi lời thơ ấy buộc phải đánh đổi bằng một phần nào đó của sự sống.

Như nhiều nhà nghiên cứu đã bàn tới, Thế Lữ, Xuân Diệu là những nhà thơ đại diện cho nhánh lãng mạn trên cây Thơ Mới. Vì thế, trong con mắt thơ của họ, “người thơ” hiện diện với tư cách một cái tôi lãng mạn cũng là điều không có gì khó hiểu. Nhưng Thơ Mới không chỉ là lãng mạn. Kể từ nửa cuối những năm 1930, khuynh hướng thơ tượng trưng, siêu thực đã xuất hiện, kéo theo nó là những cái nhìn khác, những quan niệm khác về “người thơ”. Trong lời Tựa cho tập “Thơ điên”, Hàn Mặc Tử viết: “Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa Nguồn Trong Trẻo. Trên đầu Người là cao cả, vô biên và vô lượng; xung quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm giây quyến luyến- làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai. Gió phương mô đẩy đưa Người đến bến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc... Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng... Tôi làm thơ? Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật”. Và đây, một đoạn trong lời Tựa cho tập “Điêu tàn” của Chế Lan Viên: “Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là làm sự phi thường. Thi sỹ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý. Nhưng thường thường nó không nói: Nó gào, nó thét, nó khóc, nó cười. Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn cả tuỷ là tuỷ...”. “Người thơ” của Hàn Mặc Tử là người lạc trong cõi huyền diệu, “người thơ” của Chế Lan Viên là kẻ vẫy vùng trên trời kinh dị. Và cả hai đều thuộc một kiểu nhân cách khác hẳn “người thơ” của những nhà lãng mạn Thế Lữ, Xuân Diệu v.v... Cái khác ở đây thể hiện ở việc nhà thơ vượt thoát khỏi giới hạn của chủ nghĩa lãng mạn duy lý để đặt chân lên bờ cõi siêu thực tại. Họ xem trọng những gì như bất giác đến từ trực giác, từ vô thức, họ đối thoại với người của cõi sống và người của cõi chết. Họ không phản đối xúc cảm trong thơ, nhưng với họ, xúc cảm của những “người thơ” lãng mạn chỉ là thứ “tâm tình thế tục, nông gần”, thứ “cảm giác đơn nghèo” và “nỗi lòng nhạt nhẽo”. Họ cần một cái gì hơn thế.

Mỗi trường phái, mỗi khuynh hướng trong thơ ca dường như đều kéo theo một cái nhìn riêng, xác định về con người thi sỹ, về chức năng xã hội, về diện mạo thẩm mỹ và sứ mệnh nghệ thuật của anh ta. Những gì đã trình bày trong bài viết này có thể xem là một lược đồ sơ sài về “người thơ” nhìn từ những “mắt thơ” của phong trào Thơ Mới được chăng? Sau cách mạng tháng Tám 1945, với những biến động lớn của lịch sử xã hội Việt Nam, thơ đã vận động theo một hướng khác, quan niệm về người làm thơ của chính những nhà thơ cũng đã rất khác. Tuy nhiên, đó là vấn đề mà người viết không định bàn tới trong bài này.

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Người thơ, qua những tự họa

    POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO