

Những điểm nghẽn trong giáo dục ĐH đã được các chuyên gia chỉ ra như hệ thống phân tán, manh mún, chất lượng không đồng đều, quy mô cơ sở nhỏ. Điều đó phản ánh rõ qua nhiều mùa tuyển sinh, khi khoảng cách giữa các nhóm trường, nhóm ngành ngày càng lớn. Nhiều ngành ở nhiều trường lấy điểm chuẩn rất cao, thậm chí chạm ngưỡng 30/30 điểm, nhưng ở chiều ngược lại, cũng có nhiều trường dù chỉ tuyển ở mức điểm sàn vẫn không đủ chỉ tiêu.
Mùa tuyển sinh năm 2025 cũng không ngoại lệ. Đáng chú ý, tình trạng thiếu thí sinh không chỉ xảy ra ở các trường tốp giữa mà còn xuất hiện ngay cả ở một số ngành vốn được xem là “hot” như y dược, sư phạm. Thực trạng này không chỉ phản ánh khoảng cách chênh lệch trong nguồn tuyển, mà còn đặt ra yêu cầu tái cấu trúc hệ thống, nâng cao năng lực và vị thế của các trường đại học.

GS.TS Nguyễn Đình Đức – nguyên Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, đây là thời điểm chín muồi, là thời cơ chưa từng có để chúng ta mạnh dạn cải tổ lại hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Việc sáp nhập các trường đại học, theo ông, trước tiên sẽ giúp tránh dàn trải, trùng lặp ngành, chương trình, đặc biệt ở những cơ sở quy mô nhỏ, hiệu quả thấp, đồng thời góp phần nâng tầm cạnh tranh quốc tế. Đây chính là bước đi đầu tiên để hình thành các đại học đa ngành có quy mô đủ lớn, có hệ sinh thái nghiên cứu - đổi mới, tăng cơ hội vào các bảng xếp hạng và thu hút học giả, sinh viên quốc tế.
Thực hiện chủ trương tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học và cao đẳng, ghi nhận thực tế cho thấy, nhiều địa phương đã xây dựng lộ trình triển khai phù hợp với điều kiện thực tế. Một số tỉnh, thành như TP.HCM, Thanh Hóa, Phú Thọ, Hà Tĩnh và Cà Mau đã đề xuất sáp nhập hàng chục trường đại học, cao đẳng và trung cấp nhằm tinh gọn mạng lưới cơ sở giáo dục, đúng theo định hướng của Chính phủ.

Mới đây, Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã ký các Quyết định sáp nhập Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên vào Trường ĐH Y - Dược, ĐHThái Nguyên và Trường Cao đẳng Y tế Huế vào Trường ĐH Y - Dược, ĐH Huế.
Phó Thủ tướng giao Bộ GDĐT và UBND tỉnh Thái Nguyên, UBND thành phố Huế chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện bàn giao, tiếp nhận nguyên trạng nhân sự, tài chính, tài sản, người học của 2 trường cao đẳng trên vào 2 trường ĐH theo quy định.
Quá trình sáp nhập, tổ chức lại phải đảm bảo hoạt động bình thường, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên liên quan, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát, lãng phí tài chính, tài sản.
Bộ GDĐT chỉ đạo ĐH Thái Nguyên, ĐH Huế hướng dẫn Trường ĐH Y - Dược, ĐH Thái Nguyên và Trường ĐH Y - Dược, ĐH Huế về việc đào tạo và cấp bằng cho người học đang học tại 2 trường cao đẳng theo quy định.

Như đã đề cập ở bài trước, yếu tố tâm lý, khó thích nghi với cái mới là một trong những thách thức lớn khi sắp xếp, sáp nhập các trường đại học. Để hòa giải những lo ngại này và làm tốt công tác sáp nhập, GS Nguyễn Đình Đức cho rằng, cần thống nhất nguyên tắc xử lý: “không ai bị bỏ lại phía sau”, cùng với sự minh bạch và phân chia theo từng giai đoạn. Sau sáp nhập, tái cấu trúc, các trường cần khẩn trương xây dựng lại vị trí việc làm, mô tả chức năng, tiêu chuẩn học thuật; thiết lập cơ chế đánh giá cũng như điều chỉnh độc lập, công khai và minh bạch; đặc biệt là cơ chế tài chính, quy chế chi tiêu nội bộ; cần lường được những tình huống khá phức tạp như có trường đã tự chủ sáp nhập vào trường chưa tự chủ và ngược lại.

Các trường đại học là môi trường học thuật, nên sáp nhập khác với doanh nghiệp và các cơ quan hành chính. Vì vậy với giảng viên cần tôn trọng thâm niên, thành tích và trong sự thống nhất, chấp nhận cả sự khác biệt; đồng thời có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với nâng chuẩn, hỗ trợ nghiên cứu; giữ ổn định thu nhập trong thời gian chuyển tiếp.
Với sinh viên, theo GS Nguyễn Đình Đức, cần bảo toàn quyền lợi học tập, đồng thời có kế hoạch từng bước thống nhất chuẩn chương trình đào tạo sau sáp nhập.
“Tinh thần chung là sáp nhập không phải là ghép cơ học mà là tái cấu trúc chiến lược để hình thành những đại học mạnh, liên ngành, tự chủ, có trách nhiệm giải trình cao. Thành công của cuộc cải tổ này phụ thuộc vào thiết kế thể chế, mô hình quản trị, dữ liệu minh bạch, lộ trình nhân văn và cam kết đặt chất lượng – con người – sứ mệnh quốc gia ở vị trí trung tâm”, GS Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh.

Sáp nhập các trường đại học đã trở thành xu hướng toàn cầu nhằm tăng sức cạnh tranh và khắc phục những hạn chế trong hệ thống giáo dục mỗi nước. Ở Pháp, quá trình này được triển khai từ đầu những năm 2000; còn tại Trung Quốc, ba làn sóng sáp nhập mạnh mẽ diễn ra trong giai đoạn 1992–2000.
Theo TS Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu Nghị, kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, các trường sau khi sáp nhập thường mất vài năm để đồng bộ về đào tạo và quản trị. Bên cạnh đó, vấn đề thương hiệu và tuyển sinh cũng là thách thức lớn, bởi việc đổi tên hoặc cơ cấu lại có thể khiến trường mất thời gian khẳng định lại vị thế, ảnh hưởng đến tâm lý người học. Tại Pháp, các đại học sau sáp nhập thường cần 3–5 năm để ổn định thương hiệu và uy tín học thuật.

Để chủ trương này mang lại hiệu quả và tính bền vững, TS Thư cho rằng cần một lộ trình khoa học, minh bạch, có tầm nhìn dài hạn. Trước hết, phải xây dựng bộ tiêu chí cụ thể để xác định mô hình và đối tượng sáp nhập, tránh làm theo kiểu cơ học hay chỉ dựa vào yếu tố địa lý. Việc sáp nhập cần dựa trên sự bổ trợ về ngành nghề, năng lực đào tạo, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Bên cạnh đó, cần thực hiện thí điểm một số mô hình, có đánh giá độc lập trước khi nhân rộng, như cách Hàn Quốc và Singapore đã làm khi xây dựng các đại học vùng và đại học quốc gia.
Theo TS Thư, yếu tố then chốt là phải đảm bảo quyền lợi và sự đồng thuận nội bộ. Giảng viên, sinh viên cần được tham gia thảo luận, có cơ chế rõ ràng về vị trí việc làm, thu nhập và hướng phát triển sau sáp nhập. Ngoài ra, Nhà nước cần hỗ trợ cơ chế tài chính và pháp lý linh hoạt cho mô hình mới, từ tự chủ, đầu tư hạ tầng, chuyển đổi số đến kiểm định chất lượng, để giúp các trường sau sáp nhập vận hành hiệu quả.
“Mục tiêu cuối cùng không phải là giảm số lượng trường, mà là nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh. Kinh nghiệm từ Đại học Paris-Saclay (Pháp) hay Đại học Quốc gia Singapore cho thấy, khi sáp nhập gắn liền với đổi mới sáng tạo và quốc tế hóa, hiệu quả đạt được rõ ràng và bền vững hơn”, TS Thư nói và nhấn mạnh ba yếu tố cốt lõi để chủ trương này đi vào thực chất, mang lại lợi ích lâu dài cho người học và xã hội là lộ trình rõ ràng, tiêu chí minh bạch và sự đồng thuận.

TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp (Bộ GDĐT) cho rằng, trong quá trình sáp nhập và quy hoạch các cơ sở giáo dục đại học, điều quan trọng là phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Ông cũng lưu ý, việc chuyển một số trường đại học về địa phương quản lý như định hướng trong Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị, cần được cân nhắc kỹ lưỡng, có tiêu chí cụ thể và cơ chế giám sát chặt chẽ. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, giảng viên phải được bố trí hợp lý để tạo ra sự cộng hưởng, tránh chồng chéo. Các ngành tuyển sinh kém, hiệu quả thấp nên được rà soát, thu gọn hoặc tích hợp nhằm tập trung nguồn lực.
Theo TS Vinh, quá trình tái cấu trúc cần bảo đảm quyền lợi và chất lượng học thuật. Việc tổ chức lại phải đi kèm với cơ chế bảo vệ quyền lợi của sinh viên, giảng viên và cán bộ để không nên gây xáo trộn đột ngột. Các trường sau sáp nhập phải duy trì và nâng cao chuẩn đào tạo, hệ thống kiểm định, chuẩn đầu ra, coi chất lượng học thuật là yếu tố cốt lõi, tránh tình trạng “to xác nhưng kém chất”.
Thực hiện: Nguyễn
Hoài
Trình bày: Quang Hùng