

Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều điều kiện thuận lợi. Nằm ở trung tâm khu vực châu Á – Thái Bình Dương năng động, nơi được xem là “động cơ tăng trưởng của thế giới”, Việt Nam đang hội tụ cả vị thế địa chính trị chiến lược, thể chế ổn định và ý chí cải cách mạnh mẽ.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thể hiện tốc độ cải cách thể chế nhanh và hiệu quả, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ngày càng coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, lắng nghe các ý kiến mang tính xây dựng và cụ thể hóa thành chính sách thực tiễn, thể hiện rõ trong các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.

Sau nhiều năm tăng trưởng ấn tượng với năng lực xuất khẩu mạnh và sức cạnh tranh ngày càng cao, Việt Nam đủ tự tin hướng tới nền kinh tế vận hành theo tiêu chuẩn toàn cầu, nơi doanh nghiệp (DN) Việt có thể phục vụ, cạnh tranh và hợp tác quốc tế.
Đây cũng là thời điểm cần chuyển từ “Made in Vietnam” sang “Created in Vietnam”, khẳng định dấu ấn sáng tạo và trí tuệ Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới. Doanh nhân tư nhân là những người tiên phong đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào sản xuất, tạo việc làm, hình thành ngành công nghiệp mới và lan tỏa tinh thần cạnh tranh lành mạnh trong toàn nền kinh tế.

Song cũng phải thẳng thắn nhìn nhận, khu vực kinh tế tư nhân đang yếu bởi “bộ ba hạn chế” của nền kinh tế Việt Nam: năng suất tổng hợp (TFP) thấp, tỷ lệ nội địa hóa (DVA) thấp và khả năng tiếp cận thị trường (IMA) yếu. TFP thấp phản ánh trình độ công nghệ, quản trị và đổi mới sáng tạo còn hạn chế; DVA thấp cho thấy giá trị gia tăng nội địa nhỏ, hàng hóa chủ yếu gia công và khó đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế; trong khi IMA yếu thể hiện khả năng kết nối chuỗi cung ứng và mở rộng thị trường toàn cầu còn hạn chế. Ba yếu tố này tạo thành vòng xoáy kìm hãm năng lực cạnh tranh: TFP thấp kéo theo DVA thấp, DVA thấp khiến IMA yếu, và IMA yếu lại làm giảm năng suất tổng hợp. Đây là nút thắt trọng yếu cần được tháo gỡ để khu vực tư nhân thật sự trở thành động lực trung tâm của tăng trưởng và hội nhập toàn cầu.

Nhận diện rõ tiềm năng và hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân, Đảng ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW với quan điểm xuyên suốt: kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khu vực tư nhân được kỳ vọng tăng trưởng 10–12%/năm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP và việc làm, đưa Việt Nam vươn lên top 5 châu Á về đổi mới sáng tạo, khẳng định tinh thần tự cường và sáng tạo dân tộc, biến khu vực tư nhân thành trụ cột chiến lược của nền kinh tế trong kỷ nguyên hội nhập.

Quyết tâm này được thể chế bằng Nghị quyết 198/2025/QH15 về một số chính sách đặt biệt phát triển kinh tế tư nhân. Trọng tâm là cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng ít rào cản, ít thanh kiểm tra, nhiều niềm tin, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm và ứng dụng số hóa để giảm chi phí tuân thủ. Cùng với đó, cần bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, ưu tiên xử lý dân sự, kinh tế trước hình sự, giúp DN yên tâm đổi mới, dám đầu tư và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật.
Nhưng, qua phản ánh của nhiều DN, các điều kiện kinh doanh còn khá phức tạp, với nhiều yêu cầu mà DN phải đáp ứng trước khi được phép hoạt động như kiểm định, môi trường hay đăng ký thông tin. Trong khi đó, hạ tầng số và ứng dụng công nghệ số để xử lý thủ tục còn hạn chế, khiến cơ quan quản lý dễ rơi vào quá tải, DN khó khăn. Do vậy, cắt giảm điều kiện kinh doanh, đơn giản thủ tục và thúc đẩy số hóa cần phải thực hiện đồng thời với quá trình sáp nhập.
Mấu chốt quyết định thành công của cuộc nâng tầm DN còn đi kèm với của cuộc cải cách sáp nhập tỉnh, không tổ chức cấp huyện để xây dựng chính quyền địa phương hai cấp hiệu quả, chủ yếu nhằm ở việc cải cách hệ thống văn bản pháp luật cho phù hợp với hệ thống tổ chức mới đã tạo không gian rộng hơn cho DN phát triển, khai thác tiềm năng.

Thực tế, pháp luật hiện hành đặt ra nhiều điều kiện kinh doanh buộc DN phải đăng ký, được cấp phép mới đủ điều kiện hoạt động. Tuy nhiên, sau khi cấp phép, cơ quan quản lý nhà nước thường không theo sát việc kiểm soát liên tục. Nên chăng pháp luật chỉ cần công bố quy chuẩn phù hợp với quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, để DN tự đáp ứng và tham gia. Cơ quan quản lý sẽ tiến hành hậu kiểm, xử lý sai phạm (trừ ngành nghề phải quy định nghiêm ngặt). Với những lĩnh vực DN không tự làm được như đảm bảo quy chuẩn xây dựng, quy chuẩn phòng cháy chữa cháy, nên khuyến khích các đơn vị tư vấn hỗ trợ, đồng thời chịu trách nhiệm đảm bảo tuân thủ pháp luật.

Trong nền kinh tế hiện đại, các ngành, các khu vực và các DN luôn có mối quan hệ gắn kết mật thiết với nhau: sản phẩm của ngành này trở thành đầu vào cho ngành khác, sản phẩm của DN này lại là nguyên liệu cho DN khác và cuối cùng đến tay người tiêu dùng. Khi các thành phần kinh tế được tổ chức hợp lý theo chuỗi giá trị, có sự hỗ trợ và cộng hưởng lẫn nhau, quốc gia sẽ tạo dựng được động lực tăng trưởng bền vững.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, các khu vực kinh tế nhà nước, tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam chưa thực sự tạo được sự cộng hưởng trong phát triển. Ở nhiều trường hợp, kinh tế nhà nước và khu vực FDI lại gây ra những tác động chèn lấn, phần nào thu hẹp không gian phát triển của DN tư nhân nội địa.

Bài toán đặt ra cho Việt Nam là phải xác định rõ khu vực kinh tế trung tâm – nơi hội tụ đủ động lực sáng tạo, lợi ích sở hữu và tinh thần dân tộc. Trong bối cảnh ấy, kinh tế tư nhân nổi lên như trụ cột có tiềm năng bứt phá, tạo động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Chính sách phát triển cần đặt DN tư nhân ở vị trí trung tâm; đồng thời tái cơ cấu DN nhà nước theo hướng hỗ trợ và dẫn dắt công nghệ, thu hút FDI theo hướng bám rễ, kết nối và bổ khuyết cho khu vực tư nhân thay vì chèn lấn.
Cần hướng tới mục tiêu tạo lập sự cộng hưởng giữa ba khu vực kinh tế: nhà nước – tư nhân – FDI. Khi ba khu vực này được gắn kết trên nền tảng thể chế minh bạch, dữ liệu số hóa và hạ tầng đồng bộ, nền kinh tế Việt Nam sẽ hình thành một hệ sinh thái phát triển năng động, hiệu quả và bền vững.

Ngoài ra, phát huy vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân, kết hợp hài hòa với nguồn lực của nhà nước và quốc tế sẽ là con đường ngắn nhất để hiện thực hóa khát vọng: Việt Nam sớm trở thành quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại.

Thực tế tại TP.HCM cho thấy, chương trình kích cầu đầu tư đã mang lại hiệu quả rõ rệt khi hỗ trợ DN đổi mới công nghệ, giảm chi phí vốn và nâng cao năng lực cạnh tranh; mô hình này cần nhân rộng toàn quốc để tạo động lực mới cho sản xuất và tăng trưởng.

Như vậy cần tạo cơ chế để đột phá công nghệ, năng suất, triển khai chương trình quốc gia nâng cao TFP, hỗ trợ chuyển đổi số, R&D và liên kết FDI; đồng thời phát triển mạng lưới DN nội địa trong chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao nội địa hóa và năng lực cạnh tranh quốc tế. Những cú hích chính sách đủ mạnh sẽ khơi dậy tinh thần dấn thân của doanh nhân, thúc đẩy đầu tư lớn hơn, sáng tạo mạnh mẽ hơn và đưa Việt Nam vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu, hiện thực hóa khát vọng phát triển tự cường và bền vững.
Ở góc độ DN, để tận dụng hiệu quả chính sách, cần làm ăn minh bạch, tuân thủ pháp luật để giảm rủi ro và xây dựng uy tín; đồng thời nỗ lực đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chủ động tham gia các dự án công - tư, mở rộng liên kết, vươn sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. DN cũng phải đầu tư cho năng lực quản trị và đào tạo nhân lực, tiếp cận các chương trình hỗ trợ tài chính, đất đai, hạ tầng để nâng cao năng suất và quy mô.

Việt Nam đang bước vào thời kỳ mà khát vọng phát triển và tinh thần tự cường dân tộc được đặt ở trung tâm chiến lược quốc gia. Trong bức tranh đó, kinh tế tư nhân không chỉ là một khu vực, mà là biểu tượng của sức mạnh dân tộc trong thời đại mới. Nếu chính sách là “nhiên liệu”, thì DN chính là “động cơ” đưa con tàu kinh tế Việt Nam ra biển lớn. Muốn đi nhanh cần động lực mạnh; muốn đi xa phải có tầm nhìn và niềm tin.
Khi khu vực tư nhân lớn mạnh, quốc gia sẽ lớn mạnh. Mỗi DN là một hạt nhân kiến tạo, mỗi doanh nhân là người mở lối, góp phần thắp sáng khát vọng phát triển của dân tộc.

TS. Huỳnh Thanh Điền (Trường Đại học Nguyễn Tất Thành)