Thị trường mỹ thuật: Bán dấm dúi, mua lo lắng

Triết Giang 31/07/2015 22:48

Ở Việt Nam, các trao đổi tác phẩm mỹ thuật thường là trực tiếp hoặc bằng tiền mặt mà không giao dịch qua ngân hàng, không có sự chứng kiến của cán bộ công chứng; bản thân nghệ sĩ cũng không có thói quen làm giấy chứng nhận tính nguyên bản và số lượng của tác phẩm.

Thị trường mỹ thuật: Bán dấm dúi, mua lo lắng

Tranh bình dân ở Hà Nội trong tình trạng “vạn người bán, chẳng có người mua”.

Ảnh:Triết Giang

Vừa qua, tại hội thảo tìm giải pháp phát triển thị trường Mỹ thuật Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trước những kỳ vọng đưa mỹ thuật thành ngành công nghiệp văn hóa trọng điểm trong thời gian tới, giới nghiên cứu phê bình mỹ thuật rất băn khoăn với khái niệm “Thị trường mỹ thuật Việt Nam”.

Mua và bán vẫn chưa được coi là thị trường

Liệu có tồn tại một thị trường mỹ thuật tại Việt Nam không? Thạc sĩ chuyên ngành Quản trị văn hóa Nguyễn Đình Thành (ĐH Paris Dauphine) phân tích, tại các gallery ở Việt Nam, hiếm khách hàng người Việt vào mua tranh. Một số gallery, cà phê nghệ thuật, hay trung tâm nghệ thuật độc lập… cũng chủ yếu làm công tác giới thiệu các tác giả, tác phẩm là chính. Thành quả thương mại của các hoạt động này không cao.

Trong khi đó, tại Pháp, người mua tác phẩm nghệ thuật của một nghệ sĩ còn sống sẽ được khấu trừ vào thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp. Tại Mỹ, nếu tặng các tác phẩm nghệ thuật cho bảo tàng, người tặng sẽ được trừ ngược vào thuế thu nhập của mình và thậm chí được vinh danh…

Còn tại Việt Nam, cho dù có tồn tại những cái chợ nơi thì bán đồ cổ, đồ cũ, nơi bán đồ mỹ nghệ và các tác phẩm nghệ thuật, nhưng không có các chuyên gia thẩm định giá trị tác phẩm, sản phẩm được đào tạo và được nhà nước cấp bằng hành nghề. Các trao đổi thường là trực tiếp hoặc bằng tiền mặt mà không giao dịch qua ngân hàng, không có sự chứng kiến của cán bộ công chứng; bản thân nghệ sĩ cũng không có thói quen làm giấy chứng nhận tính nguyên bản và số lượng của tác phẩm.

Người mua, có muốn mua cũng không có cơ sở nào để định lượng, để có được sự xác thực. Các ngân hàng cũng không mặn mà hỗ trợ người mua giống như hỗ trợ vay mua bất động sản, ô tô, xe máy. Nếu có mua tác phẩm, cũng không có ai đảm bảo rằng tác phẩm ấy có thể bán được trên thị trường quốc tế - tức là có một giá trị nào đó, bằng hoặc cao hơn mức giá ban đầu. Điều dễ hiểu là trong điều kiện như thế, sẽ rất khó có người bỏ tiền ra mua các tác phẩm nghệ thuật.

Họa sĩ cũng hét giá

Tranh mua bán theo cơ chế tự phát đã vậy, còn việc định giá tranh, thẩm định tranh tại hệ thống bảo tàng nhà nước hiện nay dựa trên cơ sở nào? Tại sao suốt một thời gian dài, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ít sưu tầm tác phẩm nghệ thuật, khiến cho nội dung trưng bày đơn điệu?

Họa sĩ Phạm Hà Hải, nguyên thư ký Hội đồng khoa học Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cho hay: Việc mua và định giá tranh ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hiện sử dụng 100% kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước. Việc thẩm định mua và định giá tranh sẽ gồm những chuyên gia uy tín thuộc Bảo tàng, Hội Mỹ thuật, Trường Đại học Mỹ thuật, đơn vị quản lý tài chính của Bộ VHTT&DL.

Theo đó, qui trình lập hồ sơ đến quyết định mua tác phẩm, hiện vật mỹ thuật phải qua 4 bước: Phòng Nghiên cứu- Sưu tầm và giám định tác phẩm mỹ thuật đề xuất, tiếp đến ý kiến của Hội đồng khoa học, rồi Hội đồng thẩm định mua tác phẩm. Và cuối cùng là Giám đốc Bảo tàng trình Bộ duyệt kinh phí.

Dẫu vậy, từ thực tế giám định chuyên môn, theo ông Phạm Hà Hải, lâu nay Hội đồng khoa học của Bảo tàng là bộ phận giúp Giám đốc trong công tác chuyên môn, ở đây đòi hỏi tập hợp những cán bộ có uy tín trong những lĩnh vực mỹ thuật, bảo tàng học, thành viên hội đồng không là người trong giới mỹ thuật ý kiến có thể là khách quan, chủ yếu phân tích, góp ý ở những khía cạnh quy trình, nhưng thường không thể có những ý kiến thật đủ sâu sắc với tác phẩm nghệ thuật.

Vì thế mà Hội đồng khoa học mỹ thuật ở Bảo tàng Mỹ thuật cần nhiều hơn nữa những thành viên là người có sáng tác và có uy tín nghề nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các thành viên Hội đồng công tâm nhưng cũng có trường hợp có cá nhân thành viên Hội đồng chưa nắm bắt đúng và chưa hẳn có cái nhìn về giá cả nhạy bén. Như đã nói, cũng chưa hẳn mua giá thấp là tốt. Đơn cử Bảo tàng vẫn xác định mua những tác phẩm đồ họa với giá không chênh lệch nhiều so với các tác phẩm hội họa với các chất liệu thường được chấp nhận cao tiền như sơn mài, sơn dầu..

Hiện không nhiều trường hợp họa sĩ từ chối bán tranh cho Bảo tàng nhưng như thế không phải là không có. Uy tín cuả Bảo tàng và kế hoạch của họa sĩ có khi là hai nửa không gặp nhau, hoặc họa sĩ đưa ra giá quá cao khiến Bảo tàng đành rút lui vì ngân sách eo hẹp, nhưng cũng có trường hợp họa sĩ hô giá quá cao đến mức không tưởng so với chính tác giả đó ở thời điểm đó.

Từ những phân tích trên, các chuyên gia mỹ thuật cho rằng, để hình thành thị trường mỹ thuật Việt Nam chuyên nghiệp, cần nhìn toàn bộ ngành nghệ thuật từ mỹ thuật, âm nhạc tới văn học, điện ảnh… dưới góc độ một ngành công nghiệp văn hóa.

Trong đó, cần thành lập 1 đến 2 trung tâm nghệ thuật, ở đó thường xuyên diễn ra các hoạt động trao đổi, đấu giá các tác phẩm mỹ nghệ, đồ cổ, đồ cũ và các tác phẩm nghệ thuật. Như vậy, để có một thị trường mỹ thuật chuyên nghiệp, về mặt quản lý nhà nước, có ít nhất 3 thành phần của một thị trường nghệ thuật, giống như mọi thị trường khác, đó là: người bán, người mua, người trung gian. Cả 3 thành phần này đều phải được pháp luật công nhận và hoạt động chuyên nghiệp.

Các giao dịch phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp quy luật quy định, bao gồm các hoạt động mua bán truyền thống. Về lâu dài, còn cần tính đến các giao dịch thuần tuý trên mạng. Nếu không phát triển theo qui luật của thị trường, để trở thành ngành công nghiệp văn hóa, với tranh Việt mãi chỉ là giấc mơ xa.

Triết Giang