Điều trị ung thư vú: Nhiều tiến bộ vượt bậc
Theo các nhà khoa học Anh, trong 3 thập kỷ qua, công tác chẩn đoán và điều trị ung thư vú đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, hàng triệu bệnh nhân ung thư vú đã được cứu sống nhờ việc áp dụng phương pháp chữa trị chuyên biệt dựa trên đặc điểm bệnh tình của từng bệnh nhân.
Giáo sư Justin Stebbing thuộc Đại học Imperial College ở London, cho biết họ đã chứng kiến những thay đổi vượt bậc trong điều trị ung thư vú trong vài thập kỷ qua.
Phương pháp kiểm tra thay đổi tùy theo mức độ bệnh tình của từng bệnh nhân, chất lượng thuốc điều trị được cải thiện và hóa trị chọn lọc phù hợp với từng giai đoạn bệnh được cho là những yếu tố quan trọng giúp cải thiện chất lượng chẩn đoán và điều trị căn bệnh này.
Thay vì áp dụng phương pháp phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn vú để đều trị ung thư đối với mọi bệnh nhân ung thư vú như những năm 1980, thì các phương pháp hiện tại tập trung vào các khối u, phẫu thuật cắt bỏ khối u.
Bên cạnh đó, các loại thuốc chất lượng tốt hơn và đội ngũ bác sỹ có những hiểu biết sâu hơn về sự khác biệt trong bệnh trạng của từng bệnh nhân đã tạo ra những phương pháp chữa trị chuyên biệt hơn cho từng cá nhân.Điển hình là việc sử dụng hoócmôn hỗ trợ điều trị ung thư vú đối với từng độ tuổi. Trong khi hoócmôn Tamoxifen phát huy tác dụng đối với 70% các ca ung thư vú và trở thành phương pháp chủ đạo trong việc điều trị cho những phụ nữ trong gia đoạn tiền mãn kinh thì hoócmôn Anastrozole lại là sự lựa chọn cho những phụ nữ bước vào độ tuổi mãn kinh.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), với điều kiện chăm sóc tốt hơn tỷ lệ người sống được hơn 5 năm sau khi bị chẩn đoán ung thư vú đang dao động ở mức 80% ở các quốc gia phát triển phương Tây. Trong khi tỷ lệ này chỉ ở mức 40% ở các quốc gia nghèo.
Trong vòng 20 năm qua, tỷ lệ người sống sót nhờ vào phương pháp điều trị chuyên biệt hơn đã tăng gấp đôi. Mỗi năm hàng trăm nghìn phụ nữ mắc bệnh ung thư vú trên toàn thế giới đã được cứu sống.
Ung thư vú hiện vẫn là nguyên nhân tử vong hàng đầu đối với phụ nữ trong lứa tuổi từ 20 đến 59 trên toàn thế giới. Theo số liệu của WHO, căn bệnh này cướp đi sinh mạng của hơn 500.000 người phụ nữ mỗi năm.