Ấm lòng gặp ‘Phan Duy Nhân – Thơ và đời’ tại Hà Nội
Sau lần ra mắt tại TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, ngày 14/11, tại Trụ sở Báo Đại Đoàn Kết (66 Bà Triệu, Hà Nội), Báo Đại Đoàn Kết đã tổ chức buổi gặt mặt nhân dịp xuất bản cuốn sách “Phan Duy Nhân - Thơ và đời”. Tham dự buổi gặp mặt có ông Phạm Thế Duyệt, nguyên Chủ tịch Ủy ban TW MTTQ Việt Nam cùng nhiều nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng.
Tập sách "Phan Duy Nhân-Thơ và đời".
Ảnh: Thành Trung
Tập sách “Phan Duy Nhân - Thơ và đời” có độ dài 462 trang, chia làm 2 phần. Trong đó, phần 1 “Thơ Phan Duy Nhân”, gồm 150 bài, bao gồm sáng tác, dịch thơ, trong đó có 33 bài Không đề, 7 bài dịch thơ Cao Bá Quát. Đặc biệt, có 20 bài thơ viết từ năm 2006 đến 2008 bằng hình thức tin nhắn, được Đông Trà tức Nguyễn Hải Đăng, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Đà Năng lưu giữ. Phần 2 mang tên “Đời” có 32 bài của 26 tác giả, kể cả bài ký tên Nguyễn Chính hay Phan Duy Nhân.
Nhà thơ, nhà cách mạng
Phan Duy Nhân làm thơ từ rất sớm (năm 1956, ông đã có thơ in trong các tập san thơ văn yêu nước của sinh viên học sinh Quảng Nam - Đà Nẵng vào Sài Gòn… Trong tù (Côn Đảo 1968 - 1974) và sau ngày 3/4/1975, Phan Duy Nhân vẫn tiếp tục sáng tác, dù ít xuất hiện trên báo chí… Đến nay, gần 60 năm sáng tác, ông đã viết gần 600 bài thơ nhưng “phần lớn bị thất lạc”.
Cũng phải nói thêm rằng, đây là lần đầu tiên có một tuyển tập cho một người làm thơ, làm cách mạng trên địa bàn TP Đà Nẵng. Ở Huế đã có tuyển tập về Thái Ngọc San, Trương Văn Hoàng, Ngô Kha và Bửu Chí.
Cho đến bây giờ, có thể nhìn, thơ và đời Phan Duy Nhân là tổng hòa của những phiên bản: Dấn thân, chấp nhận tù đày. Một tiếng thơ buồn về thân phận làm người. Một tiếng nói đầy khát vọng về tự do cho dân tộc. Một tiếng thét về bất công xã hội. Một tiếng lòng cho tình yêu, gia đình, bạn bè người thân.
Đặc biệt, trong những năm tháng cuối đời, thơ ông là một âm vang lãng đãng hư huyền và thiền tịnh, thiên môn, “thôi hòa lòng với bụi/ thanh tịnh vầng trăng treo”. Phan Duy Nhân là tất cả những cung bậc ấy và ngần ấy cung bậc đều là tiếng nói thốt ra từ đáy lòng và trái tim của ông.
Có thể nói, toàn bộ sáng tác của Phan Duy Nhân đều bắt nguồn từ cội nguồn của cuộc sống. Men theo những vần thơ của những năm 60, 70 và cả sau này, ta bắt gặp một Phan Duy Nhân thao thức về vận mệnh dân tộc.
Triết học của thơ ông là thứ triết học dấn thân, chấp nhận mọi thử thách. Một thứ triết học rời giảng đường để nhập cuộc vào cuộc sống. Miền Nam vào cuối những năm 50 và cả thập niên 60 là thị trường chữ nghĩa của nhiều trường phải triết học: chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, hiện tượng luận, phân tâm học, ký hiệu học, phê bình mới… Phan Duy Nhân thoát khỏi cầu trường đó, chọn con đường vì đất nước và nhân dân.
Như Giáo sư Mai Quốc Liên có nêu Phan Duy Nhân là “Người chiến sĩ giải phóng, người tù chính trị Côn Đảo, học giả về tôn giáo…”. Đọc nhiều bài thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa của những năm 60 của thế kỷ trước, viết về tình yêu, tuổi trẻ, quê hương… luôn có chút gì cay uất, ray rứt. Bạn thơ cùng thời của ông, hoạt động văn nghệ trên mảnh đất miền Trung, những Phan Trước Viên, Phan Nhự Thực, Thải Tú Hạp, Lê Vĩnh Thọ… ít ai có giọng thơ của ông.
Như bài thơ “Thư cho Mẹ và chị” có chút gì đó, phảng phất “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Cùng mẹ, cùng chị, cũng giọng bị phẫn, cũng giằng co giữa hiện thực và ước vọng. Có chí lớn của “cây tùng”, có khát vọng cho “công bằng cách mệnh”, “khí phách văn chương” nhưng rồi, áo cơm ghì lại, “có kiên gan Lã Vọng cũng buông cần”, chịu cảnh “thân tàn ma dại”, “chẳng có gì nguyên ven”. Cuối cùng, quay về với Mẹ, với Chị.
Bài thơ se thắt một nỗi buồn. Một nỗi buồn u uẩn và băn khoăn giữa ý chí và tình cảm. Sự mâu thuận nội tại trong logic của hình tượng thơ đã làm nên cái hay, cái lay động của bài thơ. Bài thơ có giọng điệu riêng, không giống với thơ cùng thời. Gọng điệu bi phẫn này được phả vào những dòng thơ vừa đau đớn vừa chua chat, vừa căm giận vừa kiêu bạc.
Theo nhà báo Lê Quang Hùng, “chúng tôi cứ nghĩ, sao một người trẻ, chưa đến 20 tuổi lại trĩu nặng nỗi buồn, những ray rứt về thân phận, những ngỡ ngàng về thế sự, cảm thấy như bất lực, mỏi mò, mang “nỗi hư huyền đi suốt trăm năm”.
Còn theo Hoàng Phủ Ngọc Phan kể lại (theo lời Lê Thanh Xuân – nhà báo Hải Nam sau này): “Phan Duy Nhân đã từng đói nghèo, nó ghi danh học Luật và Văn khoa ở Huế nhưng rất ít khi đến lớp. Cứ thấy đi đi về về, không biết ăn ở chỗ nào. Nghe nói, có khi bí quá, nó cầm ổ bánh mì xá xíu chui vào trong cái lô cốt bỏ hoang ở đầu cầu Bạch Hổ ngủ qua đêm”.
Theo nhà thơ Bùi Xuân: “Nếu đúng như trong một số tư liệu bài viết, “Thư gửi các bạn sinh viên” là bài thơ mở đầu cho dòng thơ đấu tranh của tuổi trẻ miền Nam, thì đây là một đóng góp rất có ý nghĩa của Phan Duy Nhân vào dòng văn học đấu tranh đầy tự tình dân tộc của tuổi trẻ yêu nước ở các đô thị miền Nam trước 30/4/1975”.
Phan Duy Nhân, một chiến sĩ
Trong cuốn sách “Phan Duy Nhân – Thơ và đời”, nhà nghiên cứu văn hóa, nhà báo hoạt động trong vùng giải phóng Nguyễn Đình An có bài viết cảm động “Có một Phan Duy Nhân - chiến sĩ”.
Bài viết vẽ nên chân dung Phan Duy Nhân ở khía cạnh người chiến sĩ. Sau phong trào 76 này đêm làm chủ thành phố (11/3 đến 25/5/1966) lắng xuống, tình hình có nhiều biến động, đấu tranh công khai bị đàn áp. Lực lượng đô thị thực hiện 4 tổng (bãi thị, bãi khóa, bãi công và biểu tình thị uy) không mạnh mẽ. Phan Duy Nhân thoát ly ra vùng giải phóng.
Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1968, Tết Mậu Thân năm đó, Phan Duy Nhân vào nội thành, đóng quân trong chùa Tỉnh hội, chỉ đạo biểu tình. Cũng tại ngã ba chùa Tỉnh hội, cầm loa dẫn đầu đoàn biểu tình, hô vang các khẩu hiệu, Phan Duy Nhân bị bắn và bị thương nặng ở chân.
Không những vậy, Phan Duy Nhân là con người có trái tim yêu thương, có tâm hồn nhạy cảm, trọn tình, trọn nghĩa nghiên và luôn hướng về phái cùng khổ và cuộc đời. Chính vì vậy, nói nhà thơ Dương Đức Quảng “Trầm luân nào có chừa ai”.
Vốn là Phật tử, sau những trải nghiệm về cuộc đời, Phan Duy Nhân chọn con đường hành hương về thế giới thiền học, thiền tịnh tâm hồn.
Những bài viết về Hòa thượng Thích Quảng Đức, Hòa thượng Thích Trí Quang, Thích Quang Thể, Thích Thiện Chiếu… phảng phất chất thiền tịnh, tim an lạc cho tâm hồn, giũ bỏ những trầm luân của kiếp người.
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến: Đây là một tập sách đặt biệt về một số phận đặc biệt, một nhà thơ đặc biệt. Qua tập sách chúng ta hình dung về một con người Phan Duy Nhân. Qua cuốn sách, thì đây không chỉ là tình cảm của anh em mà tôi cứ suy nghĩ trong suốt 65 cầm bút của Phan Duy Nhân đến nay mọi người mới hiểu được một hành trình lặng lẽ, rất đặc biệt của ông Ông Phạm Thế Duyệt - Nguyên Chủ tịch Ủy ban TƯ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Tôi có rất may mắn gắn bó với anh Nhân tại Ban Tuyên giáo Trung ương, tuy thời gian không dài. Với anh Nhân, tôi thấy, đó là một con người đức độ, chân tình, tiến bộ. Thông qua đấy, tôi cũng nhắn nhủ đó là chúng ta phải làm thế nào với những có công với nước, những tấm gương hết lòng vì dân vì nước. Tôi mong muốn sau cuốn sách, chúng ta, bằng nhiều cách tuyên truyền những công lao của những anh hùng, thế hệ cha anh đã hy sinh về dân về nướch để cho các thế hệ hiện nay, mai sau nối tiếp, giữ gìn. |