Thế và lực để hội nhập
Trong cuộc trò chuyện trước thềm năm mới 2016 về thế và lực của đất nước với ĐĐK, PGS.TS Vũ Dương Huân- nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao cho biết, đến hôm nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 đối tác bao gồm 15 đối tác chiến lược đầy đủ và hai đối tác chiến lược theo lĩnh vực, 10 đối tác toàn diện. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, nhất là với các nước lớn, tạo ra bước chuyển mới về chất trong hoạt động đối ngoại, tạo thuận lợi cho nhiệm vụ hội nhậ
PGS.TS Vũ Dương Huân.
PV: Thưa ông, năm 2015 được coi là một năm không có nhiều đột biến lớn trong tình hình thế giới như năm 2014 nhưng những thách thức thì vẫn còn đó. Trong bối cảnh ấy, ông đánh giá thế nào về đối ngoại Việt Nam trên trường quốc tế, năm 2015?
PGS. TS Vũ Dương Huân: Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, có không ít khó khăn, phức tạp, thách thức, nhưng với sự phối hợp chặt chẽ với các ngành khác, địa phương dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, trong năm 2015, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong thực hiện đường lối đối ngoại Đại hội XI.
Điểm đầu tiên tôi muốn nhấn mạnh, đó là, ngoại giao đã góp phần tiếp tục giữ vững và củng cố được môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, kinh tế thế giới và kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, việc chúng ta tiếp tục duy trì được môi trường hòa bình, ổn định, từng bước ổn định kinh tế vĩ mô, có tăng trưởng khá, bảo đảm an sinh xã hội, huy động được đáng kể các nguồn tài trợ phát triển chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng gấp đôi năm ngoài (đạt hơn 20 tỷ USD), mở rộng được thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu...
Tiếp đó, cũng cần khẳng định, ngoại giao Việt Nam góp phần giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, kịp thời giải quyết thoả đáng các vấn đề nảy sinh trên biển.
Trong việc phân giới cắm mốc với Campuchia đã hoàn thành khoảng 85%; tích cực đàm phán phân định vùng cửa Vịnh và hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm và đã ký Hiệp định về tàu thuyền đi lại tại khu vực tầu thuyền đi lại tự do ở của sông Bắc Luân, Hiệp định Hợp tác bảo vệ và khai tác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc với Trung Quốc...
Những khác biệt trong tranh chấp ở Biển Đông tuy còn không ít trở ngại nhưng chúng ta tiếp tục đàm phán, đối thoại trên cả bình diện song phương và đa phương. Hình thành biện pháp ổn định lâu dài giải quyết tranh chấp chủ quyền, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới ngày càng được củng cố, phát triển và dần dần đi vào chiều sâu, trước hết là các nước láng giềng, khu vực và các trung tâm chính trị, kinh tế thế giới.
Việt Nam cũng thực sự phát huy được vai trò là thành viên tích cực của các thể chế khu vực và toàn cầu. Nước ta đã tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình liên kết khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và thế giới thông qua việc tham dự các tổ chức và diễn đàn quốc tế, trước hết là LHQ, UNESCO, ASEAN, Cộng đồng kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Diễn đàn cấp cao Đông Á (EAS)… Kết quả đó thể hiện uy tín quốc tế của nước ta và lòng tin của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam.
Cũng cần nói đến công tác vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị đã có những chuyển biến rõ rệt. Người Việt ở xa đất nước ngày càng hướng về quê hương, gắn bó và có nhiều đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã và đang làm tốt nhiệm vụ bảo hộ công dân, thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy của cộng đồng người Việt sinh sống và làm việc ở nước ngoài…
Năm nay, lãnh đạo cấp cao của chúng ta đã có những cuộc thăm viếng lẫn nhau với nhiều nước lớn; đã có các cuộc hội đàm, gặp gỡ song phương với lãnh đạo cấp cao của 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Ngược lại, nhiều đối tác lớn cũng đến thăm Việt Nam ở cấp Nhà nước. Đối với vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế thì những chuyến thăm như thế nói lên điều gì, thưa ông?
- Cho đến hôm nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 đối tác bao gồm 15 đối tác chiến lược đầy đủ và 2 đối tác chiến lược theo lĩnh vực, 10 đối tác toàn diện. Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, nhất là với các nước lớn, tạo ra bước chuyển mới về chất trong hoạt động đối ngoại, tạo thuận lợi cho nhiệm vụ hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn mới. Việt Nam đã xác lập vị trí trong chính sách đối ngoại của các nước lớn, tạo cơ sở quan trọng đưa quan hệ của Việt Nam với các đối tác phát triển ổn định, thiết thực và hiệu quả trong trung hạn và dài hạn.
Hệ thống quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện là một đảm bảo to lớn cho sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với đường lối đối ngoại hòa bình và có trách nhiệm của chúng ta, được ghi trong nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam và các nước. Chỉ riêng đối tác chiến lược, Việt Nam có quan hệ với 3,53 tỷ người và với thị trường 14 đối tác có giá trị tổng GDP đạt 33.789 tỷ USD gấp hơn 200 lần GDP của nước ta.
Đồng thời, Việt Nam đã nâng tầm vị thế của mình trong quan hệ bình đẳng với các đối tác này, cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt Nam với vai trò và ảnh hưởng nhất định trong khu vực. Trong chiến lược đối ngoại của họ, Việt Nam được định hình ở vị trí quan trọng trong chính sách các nước châu Á - Thái Bình Dương, ở LHQ và các tổ chức quốc tế, nhất là ở khu vực Đông Nam Á, châu Á. Quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các đối tác chủ chốt làm gia tăng xu hướng hợp tác và cam kết chính trị ở các cấp cao nhất tôn trọng lựa chọn thể chế chính trị của Việt Nam, góp phần tích cực vào việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng.
Ví như Hoa Kỳ đã cam kết tôn trọng thể chế chính trị Việt Nam trong Tuyên bố chung về đối tác toàn diện (7/2013) và đặc biệt trong chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Hoa Kỳ (7/2015). Hơn nữa, Việt Nam và các đối tác có nhiều cơ hội hơn để phát triển hợp tác, tăng cường hiểu biết, đồng thời thu hẹp sự khác biệt. Các khuôn khổ hợp tác đã làm gia tăng xu hướng đối thoại, giúp làm rõ những khác biệt, qua đó giảm thiểu hiểu lầm chiến lược.
Thêm vào đó, khuôn khổ đối tác đã mở ra kênh để Việt Nam đấu tranh trực diện với những âm mưu, ý đồ xuyên tạc, lợi dụng vấn đề khác biệt để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Ngoài ra, lòng tin đối với các trung tâm quyền lực được củng cố và nâng lên. Trong khuôn khổ quan hệ mới, việc xích lại gần nhau hơn là tiền đề cho việc tăng cường gặp gỡ, trao đổi và tiếp xúc cấp cao.
Trong nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện mà chúng ta ký kết, mục tiêu là hợp tác vì hòa bình, ổn định để phát triển và đóng góp vào hòa bình, phồn vinh của khu vực vì sự phát triển của các dân tộc trên thế giới. Đó là thông điệp mang tính nguyên tắc của Việt Nam và khẳng định sự công nhận và ủng hộ vững chắc của các nước đối với đường lối đối ngoại hòa bình của nước ta.
Đạt được thỏa thuận qua những FTA thế hệ mới, chúng ta có “lưng vốn” gì cho công cuộc phát triển đất nước nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng, thưa ông?
- Hội nhập quốc tế là hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia dân tộc. Việc tham gia đàm phán các hiệp định FTA là biểu hiện của hội nhập quốc tế. Cho đến hiện nay, Việt Nam đã tham gia khoảng 55 hiệp định thương mại tự do. Các hiệp định thương mại tự do được đàm phán và ký kết hay chuẩn bị kết gần đây nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Việc ký kết các FTA cho thấy Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào thế giới. Nền kinh tế nước ta ngày càng gắn chặt với nền kinh tế khu vực và thế giới, là bộ phận không tách rời của nền kinh tế thế giới.
Hội nhập quốc tế vừa tạo ra thời cơ, đồng thời cũng gây ra không ít thách thức cho nền kinh tế nước ta. Khó khăn, thuận lợi, thời cơ, thách thức đan xen. Nếu chúng ta biết nắm bắt và tranh thủ thời cơ do hội nhập quốc tế mang lại và nhận biết các thách thức, khó khăn để chủ động đối phó; mặt khác, chúng ta phải chuẩn bị tốt để đón thời cơ, đối phó với thách thức thì chúng ta sẽ thành công. Ngược lại, nếu không thành công, khó khăn, phức tạp sẽ nhiều hơn.
Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột kinh tế, chính trị - an ninh, văn hóa-xã hội đã ra đời theo đúng lộ trình.Trong Cộng đồng ASEAN, vị trí vai trò tích cực của Việt Nam đã đươc khẳng định. Nhưng để trở thành một trong những “đầu tàu” của khối chúng ta cần phải làm gì, làm như thế nào?
- Sau 30 năm Đổi mới, thế và lực của nước ta đã khác trước. Việt Nam là nước lớn trong khối với diện tích hơn 330 nghìn km2, dân số hơn 91 triệu người, kinh tế với GDP gần 200 tỷ USD, kim ngạch thương mại khoảng 350 tỷ USD, kinh tế phát triển năng động, có quan hệ ngoại giao với 186/193 nước thành viên của LHQ, trong đó có tất cả các nước trong Hội đồng Bảo an, thành viên của hơn 50 tổ chức khu vực và quốc tế; chính trị ổn định; vị trí địa chiến lược tại khu vực...
Như vậy, chúng ta có điều kiện khách quan để đóng vai trò “đầu tàu” trong khối. Mặt khác, trong những năm gần đây, chúng ta tham gia tích cực tại các tổ chức khu vực và quốc tế; được bầu vào nhiều tổ chức quốc tế có uy tín như ILO, Hội đồng chấp hành UNESCO, Chủ tịch Hội đồng thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế… và hiện là thành viên Hội đồng nhân quyền 2014-2016, Ủy ban Di sản (2013-2016), Thành viên Hội đồng Kinh tế-Xã hội ECOSOC (2016-2018), Hội đồng chấp hành UNESCO (2015-2019), Tổ chức thành công Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới IPU (2015). Việt Nam đã chính thức ứng cử làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2020 - 2021). Đăng cai APEC 2017. Đặc biệt làm Tổng thư ký ASEAN 2013-2018. Như vậy là Việt Nam đã có kinh nghiệm tham gia các tổ chức khu vực và thế giới. Chúng ta có đủ cơ sở để đóng vai trò đầu tàu trong khối.
Vấn đề chúng ta có sẵn sàng hay không đóng vai trò đầu tàu. Theo tôi, chúng ta cần sẵng sàng đóng vai trò đầu tàu trong ASEAN. Muốn vậy, Việt Nam phải tỏ rõ quyết tâm và có kế hoạch cụ thể để thực hiện vai trò đó, chuẩn bị kỹ về nguồn lực vật chất, con người…
Trân trọng cảm ơn ông!