Thiền sư Pháp Thuận: Vận nước thịnh suy đều do đoàn kết

Lưu Hùng Văn 03/01/2016 11:25

Có nhiều giả thuyết về tên thật của ông. Một số nguồn tư liệu cho rằng, ông họ Đỗ. Năm sinh của ông có thể là 914 hoặc 915. Đó là thời mà xứ Giao Chỉ nằm dưới quyền cai quản của Tiết Độ sứ Khúc Hạo, người quê ở huyện Ninh Thanh, Hải Dương hiện nay. 

Thiền sư Pháp Thuận: Vận nước thịnh suy đều do đoàn kết

Minh họa Lê Phương.

Chân tu mọi lối

Pháp Thuận xuất gia ngay từ nhỏ, theo thầy là Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ. Một số tác giả đời sau dựa theo pháp hiệu của ông mà gọi ông là Đỗ Pháp Thuận.

Cho tới hôm nay có rất ít tư liệu về con đường tu hành của Pháp Thuận từ trẻ cho tới cận kề tuổi “cổ lai hy”. Chỉ biết rằng, ông đã trụ trì ở chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ái, tức Thanh Hóa ngày nay). Ông là Thiền sư đời thứ 10 của dòng Ti-ni-đa-lưu-chi, còn gọi là dòng thiền Nam Phương. Thiền phái này được lập ra bởi Thiền sư người Ấn Độ Ti-ni-đa-lưu-chi, sang nước ta vào cuối thế kỷ thứ VI, khoảng trước hoặc sau năm 580 và đã tu ở chùa Dâu, Bắc Ninh. Thiền sư Ti-ni-đa-lưu-chi trước khi tịch năm 594 đã để lại lời phó chúc, trong đó có đoạn:

“Tâm ấn chư Phật
Tất không lừa dối
Tròn đồng thái hư
Không thiếu không dư
Không đi không đến
Không được không mất
Chẳng một chẳng khác
Chẳng trường chẳng đoạn
Vốn không chỗ sinh
Cũng không chỗ diệt
Cũng chẳng lìa xa
Chẳng không lìa xa
Vì đối vọng duyên.
Nên giả đặt tên …”

Theo sách Thiền uyển tập anh (Tập hợp tinh hoa vườn Thiền), tài liệu được coi là cổ nhất của Phật giáo Việt Nam còn lại tới hôm nay, sau khi đắc pháp, Thiền sư Pháp Thuận đã đạt được trình độ rất cao về độn số và nghệ thuật phù sấm. Và ông đã sử dụng rất điệu nghệ những năng lực tâm linh này của mình để giúp vua Lê Đại Hành vượt qua mọi trắc trở đương thời để, như Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) nhận định, “trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình”.

Cũng Thiền uyển tập anh đã đánh giá Thiền sư Pháp Thuận là một nhà bác học, giỏi về nghệ thuật và thi ca, có tài phụ tá nhà vua trong việc chính trị và thông hiểu tình hình thực tại của đất nước (bác học công thi, phụ vương tá chi tài, minh đương thế chi vụ). Khi mọi sự đã thành, Thiền sư Pháp Thuận từ chối mọi vinh hoa bổng lộc của triều đình để tiếp tục sống đời hành đạo thanh tịnh. Chính vì thế mà, cũng theo Thiền uyển tập anh, vua Lê Đại Hành “rất kính trọng ông, không gọi tên mà chỉ xưng hô là Đỗ Pháp sư mà thôi”. Thậm chí nhà vua còn đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Thiền sư…

Khẩu khí tinh anh

Là một vị chân tu uyên bác và trí tuệ sáng láng, có lẽ Thiền sư Pháp Thuận đã từng giúp vua Lê Đại Hành thực hiện nhiều sứ mệnh phức tạp cả trong việc trị quốc lẫn công tác ngoại giao. Và tình huống được coi là gây ấn tượng mạnh nhất trong đối ngoại của Thiền sư Pháp Thuận đã là lần cải trang làm “giang lệnh” (người coi sông) để đón tiếp sứ giả nhà Tống là Quốc Tử giám bác sĩ Lý Giác năm 987. Đấy là lần thứ hai Lý Giác sang nước ta.

Lần đầu, năm 986, ông sang là để mang chế sách phong cho vua Lê Đại Hành làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu. Biết Lý Giác rất thích chuyện văn thơ nên khi hay tin vua Tống lại cử ông đi sứ sang nước ta, vua Lê Đại Hành đã sai Thiền sư Pháp Thuận, lúc này đã 72 tuổi, ra đón trong vai người coi sông. Khi đi trên thuyền, thấy hai con ngỗng tung tăng bơi lội trên sông, tức cảnh sinh tình, Lý Giác mới nảy ra hai câu thơ:

Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha…
(Song song ngỗng một đôi,
Ngửa mặt ngó ven trời).
Thiền sư Pháp Thuận nghe đọc vậy liền tiếp vần ngâm nga:
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba…
(Lông trắng phơi dòng biếc,
Sóng xanh chân hồng bơi).

Thế là đã ngẫu hứng xuất hiện một bài tứ tuyệt rất chỉnh và hay, lại gợi lên những liên tưởng tới bài thơ Vịnh con ngỗng của Lạc Tiên Vương (640-684), một danh sĩ từng nổi loạn chống lại Võ Tắc Thiên nhưng rồi đã bị thất bại và chết đầy đau đớn:

“Nga nga nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba”
(Cạp cạp cạp,
Dướn cổ gọi thẳng trời,
Lông trắng ngời nước biếc,
Chân hồng xanh sóng bơi).

Lý Giác rất lấy làm phục vì chỉ một “giang lệnh” ở xứ Nam mà cũng thông tuệ như thế thì hẳn đất nước này không bao giờ là bé nhỏ cả. Và khi về sứ quán, ông đã đã làm hẳn một bài thơ khá dài, trong đó có ý ca ngợi nước Việt Thiên ngoại hữu thiên ứng viễn chiếu (Ngoài trời lại có trời soi nữa). Theo cách lý giải của Thiền sư Ngô Khuông Việt (933-1011), Lý Giác viết như thế là có ý ca ngợi vua Lê Đại Hành cũng như “trời”, không khác gì vua Tống… Trong “những dòng ghi chép có vần điệu” tốt đẹp đó của viên sứ giả triều Tống hẳn đã có tác động từ những cảm nhận của ông về “giang lệnh giả trang” Pháp Thuận…

Vận nước “vô vi”

Theo sách cũ ghi lại, Thiền sư Pháp Thuận từng viết một cuốn Bồ Tát hiệu sám hối văn. Ngoài hai câu thơ đối đáp với sứ giả nhà Tống Lý Giác kể trên, ông còn là tác giả của bài thơ (bài kệ?) rất nổi tiếng, được coi như đã mở đầu cho dòng văn học viết Việt Nam. Đó là bài Quốc tộ (Vận nước):

“Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh”.
Nhà thơ Hồng Thanh Quang tạm dịch:
“Vận nước nhuần mây quấn,
Trời Nam rạng thái bình.
Vô vi thuần ngự điện,
Muôn xứ dứt đao binh”.

Giai thoại kể rằng, lên ngôi rồi, vua Lê Đại Hành vẫn rất tín nhiệm các vị Thiền sư, trong đó có Pháp Thuận, trong việc bàn bạc quốc sách. Ở cái thời mà mọi sự đều còn rất sơ khai trong quản lý quốc gia, những gợi ý của những trí tuệ cao siêu như các Thiền sư đã có giá trị như những cú phạt cây mở lối trong rừng rậm. Một lần, vua Lê Đại Hành đã mời Thiền sư Pháp Thuận vào cung để tham vấn về việc cần làm gì để đắp bồi vận nước cho vững bền. Và Thiền sư Pháp Thuận đã đọc bài thơ chỉ có 20 chữ trên. Bài thơ rất ngắn gọn và cũng vì thế nên rất súc tích, phải ngẫm ngợi lâu mới rõ hết các ý.

Trong cách hiểu của Thiền sư Pháp Thuận, vận nước có thể thay đổi và chắc chắn sẽ thay đổi tùy thuộc vào cách ta ứng xử với nội lực. Nếu ta biết cách huy động nội lực một cách tối đa bằng cách “kết đoàn lại chúng ta là sức mạnh” thì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao” và vận nước sẽ thịnh. Nhược bằng tự chia rẽ, tự mâu thuẫn với nhau thì vận nước sẽ suy.

Thiền sư Pháp Thuận đã sử dụng cách nói tượng hình một cách nguyên sơ khi khẳng định, vận nước cũng giống như việc một búi các sợi cây mây quấn quýt lấy nhau. Sợi cây mây nào cũng dẻo cũng dai và có rất nhiều cách để quấn các sợi dây mây ấy lại với nhau. Nếu chỉ đơn lẻ thì từng sợi một rất dễ bị bẻ gãy nếu gặp phải tay cao thủ.

Nếu không biết cách quấn lại với nhau thì các sợi dây mây ấy cũng dễ trở nên lộn xộn, ông chẳng bà chuộc, không mấy đắc dụng. Nhưng nếu biết cách quấn các sợi dây mây ấy thật nhuần nhuyễn thì đó sẽ là sức mạnh, sẽ làm tăng độ bền dai mà vẫn dẻo mềm của “quốc tộ”. Muốn là một minh quân, nhà vua phải biết cách đoàn kết lại những lực lượng, những mơ ước, những nhu cầu của cả quốc gia thành một sức mạnh, vừa bền chắc, vừa mềm dẻo.

Và nhờ biết “nhuần mây cuốn” ấy nên trời Nam mới “rạng thái bình” và hình thành một triều đại mới. Và để triều đại ấy trở nên hòa bình và thịnh trị, thì việc cần làm trước tiên và mãi mãi là để cái phép “vô vi thuần ngự điện”, tức là làm sao để nhà vua biết cách an dân trị quốc bằng phép tu dưỡng “vô vi”, tức là tuân theo tự nhiên, tôn trọng những nhu cầu, đòi hỏi thực chất của chúng dân, xã tắc để giúp chấm dứt đao binh, chinh chiến…

Cũng theo Thiền uyển tập anh, Thiền sư Pháp Thuận viên tịch năm 990, tức là khoảng ba năm sau khi ông tuân lệnh vua giả làm “giang lệnh” đón và họa thơ với sứ thần nhà Tống Lý Giác. Vua Lê Đại Hành mất sau ông sáu năm (996)…

Hiện nay, cùng với hai quốc sư Ngô Khuông Việt và Minh Không, Thiền sư Pháp Thuận được thờ ở nhiều chùa cổ trong quần thể di tích cố đô Hoa Lư, như động Am Tiên, chùa Bà Ngô, chùa Nhất Trụ.

Thiền sư Pháp Thuận đã sử dụng cách nói tượng hình một cách nguyên sơ khi khẳng định, vận nước cũng giống như việc một búi các sợi cây mây quấn quýt lấy nhau. Sợi cây mây nào cũng dẻo cũng dai và có rất nhiều cách để quấn các sợi dây mây ấy lại với nhau.

Lưu Hùng Văn