Yếu tố tiên quyết để học ngoại ngữ thành công

Thu Hương (thực hiện) 07/03/2016 09:25

“Người học, một khi có nhu cầu sử dụng ngoại ngữ, họ sẽ đầu tư. Bằng chứng là có những học sinh tuổi đời rất trẻ, điểm ngoại ngữ cao vì động lực lớn, học ngoại ngữ vì muốn đi du học. Vai trò của nhà giáo dục hôm nay là hướng dẫn người học cách học sao cho hiệu quả chứ không phải là dạy họ vì không ai có thể dạy hết mọi thứ. Dạy mãi cũng không bao giờ là đủ” - TS Lê Văn Canh, ĐH Ngoại ngữ, ĐHQG Hà Nội chia sẻ xung quanh vấn đề nâng cao năng lực ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay.

PV:Là người có nhiều năm dạy ngoại ngữ trong trường ĐH, ông đánh giá thế nào về thực trạng học ngoại ngữ của sinh viên hiện nay?

TS Lê Văn Canh: Tôi nghĩ mỗi trường mỗi khác. Chẳng hạn tôi công tác tại trường chuyên ngữ nhưng không thể lấy thực trạng học ngoại ngữ của sinh viên trường tôi để nói chung về sinh viên tất cả các trường khác. Đối tượng, mục đích động cơ học tập của các em khác nhau.

Tôi đi làm bồi dưỡng giáo viên, đi làm nghiên cứu thấy một thực tế, ở các trường khác, số sinh viên có động lực học tiếng Anh không nhiều. Nhiều em nói với tôi rằng cảm thấy tiếng Anh quá khó, không học được. Nhiều thầy cô khác cũng tâm tư rằng sinh viên hiện nay lười học tiếng Anh và sợ học tiếng Anh.

Điều này đúng thôi vì với cách học dàn trải như hiện nay, sinh viên học không thấy kết quả, sẽ chán học là chuyện đương nhiên. Không riêng gì chuyện học tiếng Anh mà con người nói chung khi làm bất cứ việc gì mà thấy không có kết quả thì dễ nản, dễ chán thôi. Hứng thú làm việc đó sẽ mất đi.

Lỗi này, theo ông là do đâu?

- Học ngoại ngữ là quá trình lâu dài và gian khổ, trong quá trình đó sự tự giác của người học là quan trọng nhất. Nhìn vào thực tế chúng ta phải thừa nhận không phải tất cả đối tượng học ngoại ngữ của nước ta, trong đó có mấy triệu học sinh, sinh viên đều tự giác học ngoại ngữ. Phải hiểu việc dạy trên lớp không bao giờ là đủ do nhiều hạn chế như sĩ số lớp đông, thời lượng có hạn, tài liệu học không phù hợp, trình độ ngoại ngữ của giáo viên không đồng đều và chương trình nặng về thi cử.

Hiện chúng ta mới chú trọng đến vấn đề dạy ở trên lớp mà quên mất một điều quan trọng là phải dạy cho học sinh, sinh viên kỹ năng tự học suốt đời. Muốn thế cần tạo cho học sinh có hứng thú học tập, cách dạy phải làm sao khiến người học cảm thấy có hiệu quả. Nếu học không có hiệu quả thì họ sẽ mất dần động lực học.

Để “biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” như Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020, ngoài yếu tố tự thân mỗi người học thì vai trò của nhà trường, thầy cô và của ngành giáo dục thế nào?

- Với ngoại ngữ, trình độ năng lực phải đi theo từng giai đoạn. Chẳng hạn, để đạt mục tiêu khi tốt nghiệp THPT phải sử dụng tiếng Anh giao tiếp tốt thì căn cứ theo Khung Tham chiếu chung Châu Âu về ngôn ngữ (CEFR), học hết bậc tiểu học thì học sinh phải đạt trình độ ngoại ngữ cấp 1 là A1; hết THCS là A2; hết THPT là B1…

Tuy nhiên đây mới chỉ là sự phân loại hoàn toàn mang tính cơ học. Trên thực tế, để đạt đến trình độ C1, C2 không đơn giản. Rất nhiều người bản xứ cũng khó đạt được. Huống hồ, đó chỉ là lý thuyết còn thực tế có bao nhiêu phần trăm học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt trình độ ngoại ngữ A1 là điều chưa ai thống kê được. Còn nếu căn cứ vào phổ điểm của các kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia thì có thể thấy mục tiêu đạt B1 của học sinh tốt nghiệp cấp 3 còn cách rất xa…

Ảnh minh họa.

Vai trò của người giáo viên là xác định trình độ của học trò đang ở đâu để có phương pháp dạy phù hợp, nâng dần trình độ người học theo từng bước. Ví dụ với người chưa biết gì, yêu cầu trong khoảng thời gian vài trăm tiết lên được trình độ B1, B2 và bắt đi thi đạt kết quả ngay là không được.

Với ngành giáo dục nói chung, tôi cho rằng cần chú trọng hơn việc dạy và học tiếng Anh phải gắn với thực tiễn công việc, cuộc sống đòi hỏi. Tôi quan niệm thế này, có những trường hợp hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh có thể không thành thạo lắm nhưng hiểu nhau được, vậy là được. Quan trọng là mục đích công việc là gì. Hiện chúng ta đang đánh đồng mọi thứ. Nói một cách hình ảnh thì mọi người đang cùng khoác một cái áo sơ mi giống nhau.

Điều đó sẽ không đạt được hiệu quả. Học sinh miền núi cần gì? Sinh viên ĐH từng ngành một cần cái gì? Có phải học sinh tất cả đều cần một năng lực tiếng Anh như nhau không? Nếu không trả lời được những câu hỏi đó thì không bao giờ đạt được kết quả. Đây là bài học của Hàn Quốc, Nhật Bản… đều đã vấp phải trong những dự án giáo dục ngoại ngữ quốc gia trước đây khiến cho kết quả không được như mong đợi, họ đã nhận ra sau khi thất bại. Việt Nam đi sau đáng ra phải học được những bài học đó nhưng dường như chúng ta vẫn đi theo con đường lỗi của họ.

Ông muốn nói đến ngoại ngữ cho từng ngành nghề?

- Đúng vậy. Ở bậc ĐH, CĐ tuỳ theo chuyên ngành và mục tiêu nghề nghiệp của từng trường, mỗi trường nên xác định rõ những kỹ năng giao tiếp gì cần thiết cho từng ngành nghề để dạy sinh viên. Không nên tiếp tục dạy tiếng Anh không có mục đích sử dụng rõ ràng như ở phổ thông.

Điều này tự mỗi trường quyết định, không ai quyết định hộ được, ngành giáo dục cũng không thể đưa ra quyết định chung. Mặc dù chuẩn B1 vẫn là quy định chung của cả nước nhưng B1 của kỹ sư khác B1 của bác sĩ, B1 của thầy giáo dạy tiếng Anh phải khác với B1 của cô giáo dạy lịch sử… Chẳng hạn, bác sĩ cần đọc những tư liệu y học tiên tiến của thế giới thì kỹ năng ưu tiên nhất phải là kỹ năng đọc hiểu.

Tóm lại, mỗi trường cần xem xét lại chuẩn đầy ra ngoại ngữ theo hướng ưu tiên phát triển những kỹ năng giao tiếp cụ thể tránh nói đến các kỹ năng giao tiếp chung chung. Cần dạy và học ngoại ngữ có trọng tâm là thế.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thu Hương (thực hiện)