Hấp thụ dòng vốn ODA?
Không ít vấn đề đã bộc lộ trong quá trình sử dụng vốn ODA của các địa phương trong thời gian qua, hầu hết dự án thiếu vốn đối ứng, chậm tiến độ. Bất cập sử dụng vốn ODA cùng với việc dòng vốn này không phải là tiền cho không cũng đang rất nóng. Ông Trương Hùng Long- Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại Bộ Tài chính có cuộc trao đổi với PV Đại Đoàn Kết về vấn đề này.
Ông Trương Hùng Long.
PV: Việt Nam hiện là quốc gia nhận được nguồn vốn ODA tương đối nhiều so với các nước cùng nhóm thu nhập. Nhưng thưa ông, Ngân hàng Thế giới (WB) cảnh báo vốn ODA tại Việt Nam sẽ giảm. Đây sẽ là một khó khăn cho việc tập trung nguồn lực phát triển kinh tế?
Ông Trương Hùng Long: Trong bối cảnh hiện nay và tới đây, nguồn vốn ODA còn lại không nhiều. Đến tháng 7-2017 tới, theo lộ trình thì Việt Nam kết thúc giai đoạn tiếp cận nguồn vay ưu đãi ODA và tiến tới vay theo điều kiện thị trường. Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%. Vậy thì vấn đề đặt ra với chúng ta là gì? Chúng ta phải tập trung và huy động nguồn vốn ODA còn lại để chúng ta dồn sức cho địa phương nghèo và khó khăn, những lĩnh vực mà Nhà nước cần ưu tiên. Còn đối với những địa phương mạnh hơn về tài chính, mạnh hơn về ngân sách phải san sẻ gánh nặng với Trung ương thông qua cơ chế cho vay lại. Đồng thời chúng ta cũng mở ra cơ chế cho địa phương tiếp cận các nguồn vốn thương mại ưu đãi để thay thế các nguồn vốn ODA hiện nay.
Trong 10 năm trở lại đây, 2/3 nguồn vốn vay nước ngoài được dành cho các chương trình và dự án trọng điểm cấp Trung ương; 1/3 vốn ODA còn lại đầu tư cho các dự án cấp địa phương. Thưa ông, việc mở ra cơ chế mới liệu có khiến địa phương sốc?
- Chúng ta xác định cơ chế cho vay ODA trong giai đoạn hiện nay là chuyển đổi, và cần có lộ trình để làm sao cho các địa phương thích ứng được với năng lực của chính mình. Từ đó, từng bước để cho địa phương hoàn thiện khả năng tài chính, tăng cường năng lực tài chính của mình để phát triển. Đối với cho vay lại chính quyền địa phương, tỷ lệ cho vay lại được xác định theo điều kiện của nguồn vốn (vay ODA và vay ưu đãi). Tỷ lệ cho vay lại vốn ODA dự kiến chia làm 5 nhóm bao gồm 3 nhóm đối với các tỉnh nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương (theo mức độ trợ cấp), và 2 nhóm đối với các tỉnh điều tiết về ngân sách Trung ương. Đối với vốn vay ưu đãi, tỷ lệ cho vay lại chia làm 2 nhóm gồm nhóm các tỉnh nhận trợ cấp và nhóm các tỉnh có điều tiết về Trung ương.
Cụ thể với 3 nhóm địa phương có điều kiện tài chính tương đối khó khăn, khả năng cân đối ngân sách địa phương chưa đảm bảo, phải có sự hỗ trợ từ Trung ương sẽ có cách phân chia bậc thang. Đối với địa phương miền núi khó khăn, chúng tôi áp dụng cơ chế cho vay lại 10%, còn lại 90% vẫn theo cơ chế cấp phát. Như vậy địa phương nghèo sẽ phải tăng tỷ lệ nguồn vốn vay lại lên 10% thay vì chỉ 7-8% như giai đoạn hiện nay. Với địa phương có điều kiện tài chính khá hơn thì chia sẻ với trung ương, vay lại 20%. Còn các địa phương khá hơn nữa, sát với khả năng tự cân đối được ngân sách thì chúng tôi áp dụng cơ chế 30%. Có nghĩa là 70% Nhà nước vẫn cấp phát.
Đối với 2 nhóm địa phương còn lại, có khả năng tài chính dồi dào, có khả năng cân đối ngân sách thì khác. Nhóm các địa phương trừ Hà Nội và thành TP.HCM thì áp dụng cơ chế 50- 50. Nghĩa là nhà nước cấp phát 50%, địa phương vay lại 50%. Nhóm còn lại, là Hà Nội và TP.HCM, 2 địa phương nguồn thu ngân sách khá, chia sẻ với Trung ương, vay lại từ trung ương 80%. Nguyên tắc này sẽ đảm bình đẳng phân phối vốn bên ngoài cho các địa phương, trong đó ưu tiên cho các địa phương nghèo, và hợp lý hơn cho các địa phương có khả năng tự cân đối ngân sách.
Có nghĩa là Bộ Tài chính đang chuyển dần trách nhiệm trả nợ khoản vay ODA cho địa phương. Có ý kiến cho rằng, áp dụng cơ chế mới này sẽ đẩy gánh nặng nợ công về cho địa phương, và nếu kiểm soát không chặt sẽ nợ công sẽ lại phình to?
- Đúng là khi chuyển giao nghĩa vụ và trách nhiệm xuống cho địa phương thì kéo theo việc quản lý tăng cường kiểm soát. Khi nhà nước đi vay ở trong nước cũng như nước ngoài thì nó cấu thành nợ công. Khi chính quyền Trung ương cho chính quyền địa phương vay lại thì chính quyền địa phương sẽ phải san sẻ cái nghĩa vụ trả nợ khoản nợ đó trong phạm vi mình vay lại với Trung ương.
Vấn đề thứ nhất là đứng ở góc độ Luật Ngân sách nhà nước, khi xác lập quyền đi vay của địa phương thì đồng nghĩa với việc xác lập trách nhiệm trả nợ của địa phương. Và theo Luật NSNN 2015 có hiệu lực vào năm 2017 cùng với các văn bản hướng dẫn mà Bộ Tài chính đang làm cũng quy định rõ thẩm quyền ở địa phương. Nghĩa vụ vay, trả nợ tại địa phương sẽ được bố trí từ ngân sách địa phương và từ việc thu hồi vốn các dự án đầu tư về.
Vấn đề thứ 2, là về mặt thẩm quyền Hội đồng nhân dân. Khi xác định 1 khoản vay, Hội đồng nhân dân phải thẩm tra lại rõ ràng, giống như như Quốc hội thẩm tra các báo cáo của Chính phủ. Địa phương và hội đồng nhân dân phải thẩm định khoản vay đó về làm gì, khoản vay đó có hiệu quả hay không, vay mức độ quy mô này có hợp lý hay không và các khả năng trả nợ của năm theo lịch trả nợ của khoản vay đó như thế nào. Từ đó chính quyền địa phương mới có cơ sở thông qua.
Còn với câu chuyện trách nhiệm nợ công, thì vẫn phải kiểm soát khoản vay đó.
Thưa ông, như vậy bộ máy quản lý thêm một bộ phận mới gọi là “cơ quan kiểm soát”. Điều này có trái với quy định là tinh giản biên chế?
- Muốn kiểm soát nợ chính quyền địa phương thì hình thành bộ phận quản lý nợ địa phương. Đặt trong bối cảnh tinh giảm biên chế thì không ai lập bộ máy riêng. Ở địa phương, bộ phận này nằm ở sở tài chính. Nhưng theo tôi, quan trọng hơn trong việc kiểm soát này là xác lập các kênh thông tin giữa các cơ quan địa phương với nhau để đảm bảo tính công bằng, tính thống nhất, tính minh bạch khoản vay.
Mặc dù kịch bản nợ công ở cấp địa phương không lớn nhưng vì 63 địa phương cùng có nợ công, tức là nợ công đang ở diện rộng. Điều này buộc chúng ta càng phải kiểm soát dù nó là khoản vay nhỏ. Và đặc biệt, đối với các địa phương khó khăn, khi vay trả đều phải tính toán kỹ lưỡng, phải xây dựng trên kế hoạch ngân sách trung hạn. Hiện nay chúng tôi cũng đang thực hiện buộc địa phương đăng ký khoản vay.
Tâm lý của các địa phương vẫn là “xài tiền chùa” ODA, nhưng tương lai gần, điều này sẽ chấm dứt. Ông có khuyến cáo gì để địa phương chủ động hơn trong thời cuộc?
- Về mặt tâm lý, khi chuyển từ cơ chế cấp phát sang cho vay, sẽ khiến nhiều người e ngại. Do vậy chúng ta cần đi trước để tạo bước đệm, để các địa phương hình thành tư duy quản ý. Mấu chốt cuối cùng là để các địa phương kiểm soát được khoản nợ đi vay, nâng cao năng lực sử dụng vốn ODA.
Trân trọng cảm ơn ông!