Cây hướng dương trị tăng huyết áp
Hoa hướng dương tên khác là cây quỳ, hoa mặt trời, có danh pháp khoa học là Helianthus annuus L.), thuộc họ cúc (Asteraceae hay Compositae), Mùa hoa tháng 5 – 7; Mùa quả tháng 8 – 10.
Ảnh minh họa.
Thành phần hóa học của Hoa hướng dương bao gồm b-caroten, cryptoxanthin, taraxanthin, lutein, quercimeritrin. Lá chứa 92,2-156,3mg% acid ascorbic, 0,11% caroten, acid citric, melic, succinic. Hạt hướng dương có 13,81% protein, 22,2-36,5% dầu béo, 0,31% monosaccha- rid, 3,91% saccharose, 0,23% lecithin, 0,15% cholesterol. Dầu ép từ hạt có màu vàng nhạt, vị ngọt dịu, mùi dễ chịu, chứa các acid béo (acid myristic, palmitic, linoleic), các vitamin A, D, E.
Về mặt dược lý, dịch chiết nước từ cụm hoa hướng dương gồm đế hoa, đài hoa và cánh hoa có tác dụng hạ huyết áp. Tác dụng này do thuốc làm giãn mạch ngoại vi từ từ và kéo dài, làm giảm sức cản thành mạch và giảm nhịp tim.
Đông y cho rằng hoa hướng dương có vị hơi ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng tùy theo bộ phận dùng: cụm hoa hạ huyết áp, giảm đau; rễ và lõi thân lợi tiểu, chống ho; lá tiêu viêm, giảm đau; hạt làm se, bổ cho dịch thể.
Dưới đây là một số phương thuốc từ cây hoa hướng dương:
- Trị tăng huyết áp: Hoa hướng dương 60g phối hợp với râu ngô 30g, sắc với 400ml nước còn 100ml, thêm đường, uống làm hai lần trong ngày. Ngày dùng 1 thang.
- Hoa hướng dương chữa tăng huyết áp, đau đầu, choáng váng, ù tai, đau bụng, đau gan, đau khớp, viêm vú, thở khó khò. Ngày dùng 30 – 90g, sắc uống ngày 1 thang.
- Rễ và lõi thân hướng dương chữa đau đường tiết niệu, sỏi bàng quang, đái ra dưỡng chấp, ho, ho gà, viêm phế quản: Ngày 1 thang dùng 15 – 30g sắc uống chia 2 lần.
- Lá hướng dương chữa sốt, sốt rét. Ngày 1 thang dùng 20 – 40g sắc uống chia 2 lần.
- Hạt hướng dương chữa mệt mỏi, chán ăn, kiết lỵ ra máu, sởi phát ban: Ngày 1 thang, dùng 20 – 30g rang chín rồi ăn nhân.