Giảm áp lực nợ công

T.Hằng 11/07/2016 09:05

Nợ công thời gian qua tăng, được giải thích với nhiều lý do. Những nguyên nhân dẫn đến việc này cũng đã được chỉ ra. Vấn đề là làm sao để nợ công không tăng, kéo giảm, nhưng đầu tư xã hội vẫn phải bảo đảm - đó là bài toán khó trong khi ngân sách hạn hẹp. Về vấn đề này, ông Võ Hữu Hiển- Phó cục trưởng  Cục Quản lý nợ và tài chính, Bộ Tài chính cho biết, Bộ Tài chính đã có lộ trình để giảm áp lực nợ công.

Đẩy nhanh tiến độ giải ngân để các công trình sử dụng vốn đầu tư công đạt hiệu quả.

Nói về việc nợ công gia tăng, ông Võ Hữu Hiển- Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính cho rằng, nguyên nhân trước tiên là áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Theo ông Võ Hữu Hiển, trong giai đoạn 5 năm 2011-2015, nguồn lực chi cho đầu tư toàn xã hội vẫn ở con số 32% GDP. Đầu tư ở mức tương đối cao trong khi tỷ lệ tiết kiệm của nền kinh tế cho đầu tư chỉ khoảng 25% GDP, dẫn đến sự thiếu hụt về nguồn vốn cho đầu tư, đồng nghĩa với việc phải đi vay.

Việt Nam là nước đang trong giai đoạn phát triển, cũng như rất nhiều các nước phát triển khác buộc phải tăng vay nợ cho đầu tư, đặc biệt là các công trình kết cấu hạ tầng, từ đó khiến quy mô nợ công tăng lên.

Xét trên khía cạnh khác, đó là bối cảnh kinh tế giai đoạn 2011-2015 không thuận lợi, đặc biệt là việc điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả giai đoạn từ mức bình quân 7-7,5%/năm xuống 6,5-7,0%/năm cũng là một nguyên nhân quan trọng.

Tăng trưởng- cơ sở để tính toán các chỉ tiêu tài khóa, bội chi, vay nợ- thì giảm trong khi nhu cầu vay và các chỉ tiêu khác vẫn được giữ nguyên do phải tăng cường nguồn lực để thúc đẩy, duy trì, ổn định phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.

Hệ quả tất yếu là tỷ lệ nợ công so với GDP tăng lên. Ngoài ra, trước biến động khó lường của các đồng tiền vay khác như USD, JPY, CNY cũng làm quy mô nợ của Chính phủ tăng khi quy đổi sang đồng Việt Nam. Theo số liệu mới nhất từ Bộ Tài chính, đến ngày 31-12-2015, ước tính nợ công của Việt Nam ở mức 62,2% GDP.

Lộ trình thực hiện trả nợ công cần được đẩy nhanh.

Vẫn theo ông Hiển, cơ cấu nợ công đến cuối năm 2015 bao gồm nợ Chính phủ chiếm 80,8%, nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,8% và nợ chính quyền địa phương chiếm 1,4%.

Trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đang có xu hướng tăng từ 39% năm 2011 lên 57% năm 2015 và tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 61% năm 2011 xuống còn 43% năm 2015, như vậy là phù hợp với Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến 2030.

Về kỳ hạn, với nợ trong nước, chủ yếu phát hành trái phiếu trong nước. Trước đây, do áp lực huy động vốn lớn trong khi thị trường vốn trong nước chưa phát triển, nguồn vay đầu tư trái phiếu Chính phủ (TPCP) chủ yếu là ngân hàng thương mại nên giai đoạn 2011-2013 buộc phải vay với kỳ hạn ngắn dẫn đến áp lực trả nợ trong ngắn hạn tăng lên.

Thực hiện Nghị quyết số 78/2014/NQ-QH13 và Nghị quyết số 99/2015/NQ-QH13 của Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã chỉ đạo kéo dài thời hạn phát hành trái phiếu trong nước.

Nhờ vậy, từ năm 2014, kỳ hạn đang ở mức 3 năm, đến năm 2015, kéo dài lên 4,4 năm và 6 tháng đầu năm 2016 thì kéo dài lên 5 năm góp phần giảm thiểu rủi ro tái cấp vốn. Đối với nợ nước ngoài, vay ODA, vay ưu đãi vẫn chiếm tỷ trọng cao (trên 94%) với kỳ hạn còn lại bình quân trên 10 năm.

“Về cơ cấu lãi suất: Lãi suất phát hành TPCP trên thị trường vốn trong nước bình quân giảm từ mức 12%/năm vào năm 2011 xuống còn khoảng 6,5% vào năm 2014 và khoảng 6% vào năm 2015, góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường trái phiếu trong nước. Đối với nợ nước ngoài do các khoản vay ODA, vay ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn, lãi suất bình quân tính đến cuối năm 2015 khoảng 2%/năm”- ông Võ Hữu Hiển cho biết thêm.

Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%; Yên Nhật chiếm tỷ trọng 13% và Euro chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng tiền khác.

Để giảm áp lực nợ công, Bộ Tài chính đã có lộ trình thực hiện. Trong đó, đối với dự án sử dụng nợ công phải tuân thủ đúng dự toán được giao; tránh hiện tượng điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư, đặc biệt là tăng từ nguồn vốn vay do triển khai chậm trễ, không đúng tiến độ dẫn đến khối lượng tăng lên.

Kiên quyết cắt giảm bội chi ngân sách nhà nước theo lộ trình đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng XII và Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020; tiếp tục giảm bảo lãnh Chính phủ, ưu tiên bố trí nguồn ngân sách để trả nợ.

T.Hằng