Người giữ lửa cho tranh làng Sình
Có những lúc tưởng chừng dòng tranh của làng Sình sắp bị xóa sổ, cái nghề truyền thống có gần 500 năm của cha ông sắp đến “hồi chuông báo tử”. Thế rồi, điều may mắn đã đến với người dân làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên-Huế) là còn một người cuối cùng còn nắm giữ những bí kíp làm tranh làng Sình. Đó là nghệ nhân Kỳ Hữu Phước.
Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước là người duy nhất ở làng Sình còn khắc được mộc bản.
Kể về những thăng trầm của một làng nghề, ông Phước chia sẻ: “Tôi là đời thứ 9 làm nghề vẽ tranh của làng. Tranh làng Sình bắt đầu ngấm vào máu thịt từ khi tôi còn tấm bé, đã biết cầm cọ phụ cha tô màu cho những bức tranh đơn giản”.
Làng hoạt động ổn định nhất là thời điểm trước năm 1945, lúc ấy nhà nhà, người người đều đua nhau làm tranh.
Ở thời hoàng kim này, đi đâu trong làng cũng nghe tiếng chày, tiếng hò giã điệp, một không khí lao động thật rộn ràng, vui tươi.
Cũng theo ông Phước, những năm 1980, 1981 người ta đến làng Sình yêu cầu đóng cửa Sới đấu vật và cấm vẽ tranh, rồi họ tịch thu các bản khắc gỗ tranh làng Sình, kê biên tất cả vật dụng làm tranh mang ra chất lên Sới đấu vật để đốt, lửa cháy ngùn ngụt suốt mấy ngày đêm và có cả hàng ngàn bản khắc gỗ bị thiêu thành tro bụi.
Lo sợ tranh làng Sình bị xóa sổ, ông Phước đã cẩn thận gói 12 bản khắc chuẩn nhất vào trong chiếc áo mưa, sau đó bỏ vào một chiếc hộp gỗ rồi gói bên ngoài hộp gỗ một số áo mưa, sau đó ra sau vườn đào hố đem chôn thật sâu, trên miệng hố lấy thân tre chắn ngang rồi lấp đất trồng rau màu để tránh bị phát hiện.
Từ những năm 1990, ông Phước còn đào một cái hầm để chui xuống đó vẽ tranh, chỉnh lại khuôn và in tranh, tô màu, làm nguội…
Đến năm 2000 khi ngành du lịch bắt đầu phát triển, người ta lần tìm về các làng nghề của Huế, các trào lưu văn hóa trỗi dậy, trong đó có phục chế bộ môn vật làng Sình, lễ hội đô vật làng Sình được tổ chức.
Lúc đó, ông Phước công khai đem mấy tấm bảng khắc gỗ cất giấu bấy lâu nay ra tạo mẫu và khắc tiếp nhiều bộ khác mới hơn và mang đến biếu cho những đồng nghiệp cũ.
Nhiều người làm tranh bày tỏ lo lắng, sợ tranh vẽ ra không có ai mua, chưa tìm kiếm thị trường tiêu thụ, thế là ông Phước hứa sẽ tiêu thụ hàng giùm cho họ.
Để khỏi thất hứa, ông cất công đi nhiều nơi, rồi điện thoại giới thiệu mặt hàng, nhờ các cán bộ ở Sở Văn hóa, Sở Thông tin tỉnh Thừa Thiên - Huế tuyên truyền, quảng bá thêm cho tranh làng Sình.
Tranh làng Sình đặc trưng là loại tranh thờ cúng, gồm 3 loại chính: tranh nhân vật, tranh súc vật, tranh đồ vật; trong đó tranh nhân vật gồm 2 bộ thế mạng và bổn mạng, nhưng chủ yếu là tranh tượng bà thường được dùng để dán trên bàn thờ quanh năm.
Tranh làng sình là một loại tranh vẽ rất đẹp, rất kỹ, dùng để thờ cúng, trang trí.
Tranh bát âm đã làm phong phú thêm tranh dân gian làng Sình.
Tranh vẽ hình 12 con giáp để thờ cúng ông chuồng, bà chuồng cho nhà ai có chăn nuôi và đương nhiên ai có chăn nuôi thì mua về thờ.
Tranh còn vẽ những Bà Tổ Cô thì dùng để thờ những bà trong dòng tộc không có con cái, khi chết phải dựa vào cháu chắt, linh hồn vất vưởng đói khát, lạnh lẽo không nơi nương tựa.
Tranh vẽ đô vật thì mô phỏng vật làng Sình để người ta treo chơi trong nhà.
Nói chung, các thể loại tranh làng Sình ngày nay khá phong phú, chất liệu vẽ hoàn toàn được làm bằng lá cây, rễ cây, các loại hoa trái, màu đen thì lấy từ tro rơm, giấy điệp thì tự làm bằng xác cây, sau đó giã nhuyễn vỏ sò điệp để bồi một lớp mỏng trước khi vẽ.
Tranh vẽ rất công phu. Đầu tiên in bằng khuôn gỗ lên giấy, sau đó mới bắt đầu bồi nét, bồi điệp, phơi khô giấy vẽ rồi đến tô màu.
Tuy in bằng khuôn nhưng không phải tranh nào cũng giống nhau bởi khâu làm nguội đã làm thay đổi tất cả sắc thái, hình dạng của mỗi bức tranh.
Khuôn chỉ đóng vai trò thảo những nét cơ bản, đại cương nhất.
Do cùng khởi phát từ một gốc nên tranh dân gian làng Sình khá giống với tranh Đông Hồ ở Bắc Ninh về các công đoạn làm tranh, chỉ khác ở hình tranh và mục đích sử dụng.
Đến nay, nghệ nhân Kỳ Hữu Phước là người duy nhất của làng còn khắc được mộc bản.
Khi đã bước sang tuổi thất thập, sợ dòng tranh của làng bị mai một, thất truyền, năm 2011 ông đã cất công tìm kiếm, tuyển chọn học trò để truyền nghề khắc mộc bản, qua cuộc thi sát hạch của thầy Phước đã có 2 học trò tuổi 18 đôi mươi đầy sinh lực, đủ tố chất thông minh, sáng tạo và niềm đam mê với nghề tranh để ông tin tưởng truyền dạy.
Khó thống kê hết số lượng giấy khen, bằng khen của các cấp từ tỉnh đến Trung ương ghi nhận công đức “giữ lửa” của ông Phước cho làng nghề hồi sinh và phát triển rực rỡ như ngày nay.
Tiêu biểu, tháng 10/2014 ông Kỳ Hữu Phước là một trong hai nghệ nhân của tỉnh Thừa Thiên-Huế được Trung ương Hội khoa học phát triển nguồn nhân lực nhân tài Việt Nam cấp bằng “Tôn vinh nhân tài đất Việt đã có công bảo tồn phát huy bản sắc tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”.