Ngành công nghiệp dược Việt Nam: Cơ hội và thách thức mới
Ngành dược Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, cổ phiếu của không ít doanh nghiệp (DN) trong ngành cũng thuộc top đứng đầu. Thế nhưng, ngành này vẫn phải đối mặt nhiều thách thức.
Mỗi năm Việt Nam phải bỏ ra hàng tỷ USD để nhập thuốc chữa bệnh và nguyên liệu sản xuất thuốc.
Theo PGS TS Lê Văn Truyền- nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, ngành dược đang phát triển nhanh nhất châu Á, đứng thứ 17/175 các quốc gia trên thế giới (theo BMI) với CAGR (tốc độ tăng trưởng hàng năm kép) trung bình giai đoạn 2010 - 2015 là 17 - 20%.
Giới chuyên gia dự báo, đến năm 2017, tốc độ phát triển thị trường ngành này vẫn được dự đoán sẽ cao hơn 17%. Hồi năm ngoái, khoảng 4,2 tỷ USD dược phẩm đã được tiêu thụ tại Việt Nam, theo đó tiêu thụ bình quân đầu người ở mức 40 USD, gấp đôi năm 2010. Điều này chủ yếu được cho là do sự gia tăng tầng lớp thu nhập cao và sự mở rộng bảo hiểm y tế toàn dân.
Trao đổi với giới đầu tư tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM(HOSE) mới đây, ông Lê Văn Truyền cho biết cơ hội của công nghiệp dược Việt Nam hiện nay nằm ở quy mô dân số (dự báo sẽ đạt 100 triệu dân vào năm 2020), nhu cầu thuốc tăng nhanh, chi phí thuốc bình quân đầu người còn thấp so với bình quân trên thế giới.
Chưa kể, Chính phủ cũng có những chính sách ưu tiên đối với công nghiệp dược, cộng với xu hướng mua bán sáp nhập (M&A) của các công ty đa quốc gia và nhà sản xuất nước ngoài sẽ giúp ngành này phát triển mạnh thêm.
Còn theo nhận định của ông Đặng Trần Hải Đăng- Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu của Công ty CP chứng khoán VietinbankSC, tiềm năng tăng trưởng của ngành dược rất lớn. Dự báo của BMI cho thấy ngành này sẽ tiếp tục đạt mức tăng trưởng hai chữ số trong 5 năm tới khoảng 11,8%.
Những triển vọng tích cực này cũng được phản ánh vào diễn biến cổ phiếu ngành trong giai đoạn vừa qua khi nhóm cổ phiếu ngành dược luôn thuộc top những ngành đạt mức tăng trưởng tốt nhất.
Động lực chính để giúp cổ phiếu ngành dược đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao, như lời ông Đăng, nó nằm ở hoạt động kinh doanh cốt lõi phát triển bền vững, cộng với những kỳ vọng từ Luật Dược sửa đổi (có hiệu lực từ 1/1/2017). Nhìn chung, 9 tháng đầu năm 2016, DN toàn ngành dược đều có sự phục hồi rõ rệt cả về doanh thu và lợi nhuận.
Tuy nhiên, điều đáng quan ngại hiện nay cho công nghiệp dược là sản lượng thuốc sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu, còn lại phải nhập khẩu. Giá trị nhập khẩu đã tăng 16%/năm.
Có một thực tế là mỗi năm Việt Nam phải bỏ ra hàng tỷ USD để nhập khẩu thuốc chữa bệnh và nguyên liệu sản xuất thuốc, trong đó 90% nguyên liệu để sản xuất thuốc phải nhập khẩu.
Trong khi đó, điểm yếu của công nghiệp dược Việt Nam thì nhiều. Hiện nay, Việt Nam đã sản xuất được hầu hết các hoạt chất trong danh mục thuốc thiết yếu, gồm đủ các nhóm dược lý theo phân loại của WHO. Tuy vậy, ngành này vẫn thiếu định hướng và chưa chủ động được thuốc sản xuất trong nước.
Theo Bộ Y tế, mặc dù hiện nay, thuốc sản xuất trong nước đã chiếm khoảng 50% thị trường, nhưng nguyên liệu đa phần vẫn phải nhập khẩu, công nghiệp dược Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là công nghiệp bào chế đơn giản, hàm lượng kỹ thuật thấp.
Thực chất là công nghệ sản xuất dược phẩm chỉ ở trình độ trung bình, chủ yếu sản xuất các dạng “bào chế quy ước”, ít có các dạng bào chế công nghệ cao. Ngay cả cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trình độ và kỹ năng nghiên cứu phát triển (R&D) cũng rất yếu.
Ông Lê Văn Truyền cảnh báo, với bối cảnh Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thì nguy cơ lớn với công nghiệp dược Việt Nam hiện nay chính là năng lực cạnh tranh yếu trong khi Việt Nam mở cửa thị trường, bỏ phân biệt đối xử quốc gia, thuế nhập khẩu nội khối 0%...
Dù đối mặt với nhiều nguy cơ nhưng các DN ngành dược nội địa vẫn thiếu các chiến lược trung và dài hạn. Đặc biệt là kỹ năng tiếp thị kém, còn hệ thống phân phối thì không hiện đại.
Được biết mục tiêu chiến lược của ngành dược Việt Nam trong 5 năm tới là phải đáp ứng 80% nhu cầu thuốc thành phẩm và 20% nguyên liệu làm thuốc (API).