Tưởng rằng đã quên

Phạm Quang Đẩu 22/01/2017 17:30

Hồi ký có tựa Tưởng rằng đã quên của Kỹ sư Lê Tâm, năm nay đã 97 tuổi, đến nay tập bản thảo đã hoàn thành dày tới 700 trang…

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trò chuyện thân mật với GS Nguyễn Xiển (phải)
và KS Lê Tâm (giữa).

Quên sao, thời nhiệt huyết

Cụ quê làng Niêm Phò (Quảng Điền, Thừa Thiên- Huế), sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc, thân phụ là Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại (1858-1945), đậu Phó bảng năm 1889, Thượng thư triều đình Huế. Tên cha mẹ đặt cho cụ là Nguyễn Hy Hiền, còn cái tên “Lê Tâm”? Đó là vào năm 1949, cụ là một trong 7 sĩ quan đầu tiên của Nam Bộ được Bác Hồ phong quân hàm Đại tá, làm việc dưới quyền Trung tướng Nguyễn Bình. Lê Tâm là con một liệt sĩ, mới 10 tuổi mà nhanh nhẹn, thông minh, làm liên lạc. Ở căn cứ, Nguyễn Hy Hiền thường dạy em học chữ, học hát, thế rồi trên đường giao liên máy bay địch ào tới, một loạt đạn phóng xuống đã cướp đi đời em. Cần một tên gọi khác khi hoạt động trong lòng địch, Nguyễn Hy Hiền lấy tên Lê Tâm từ độ ấy.

Nguyễn Hy Hiền hồi nhỏ học trường Paul Bert cùng Nguyễn Kim Thành, tức nhà thơ Tố Hữu và Hà Văn Lâu (Đại tá, thứ trưởng Bộ Ngoại giao, vừa từ trần cuối năm 2016), rồi vào Quốc học Huế. Năm 1939 anh đậu thủ khoa tú tài toán và tú tài triết, nhận học bổng du học Pháp. Anh học trường quốc gia cầu đường Paris, sau nghiên cứu thêm về toán - lý cao cấp ở Đại học Sorbonne. Cuối năm 1941 anh cùng Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Lê Văn Thiêm… thành lập Hội những người Việt Nam tại Pháp. Khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công, biết Pháp có dã tâm chiếm lại nước ta một lần nữa, anh đã đề xuất Hội họp báo và rải truyền đơn chống thực dân Pháp, anh cùng Trần Đức Thảo (Thạc sĩ triết học) bị bắt. Anh được thả sau 2 tháng giam qua nhiều nhà tù. Năm 1946, phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sang đàm phán ở Fontainebleau, anh được Hội chỉ định giúp đỡ đoàn, tìm tài liệu cho các ông Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Phan Anh để đàm phán về kinh tế. Rồi tháng 2/1947 theo lời kêu gọi của Bác Hồ, anh về nước, được giao nhiệm vụ giám đốc Quân giới Nam Bộ, nghiên cứu chất nổ phá cầu. Lúc đó đồng chí Lê Duẩn có ý định kết nạp kỹ sư Lê Tâm vào Đảng, song anh bảo mình chưa có đóng góp gì cho kháng chiến, xin để việc nghiên cứu vũ khí thành công rồi Đảng hãy kết nạp. Thời kỳ này ở chiến khu Việt Bắc, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Trần Đại Nghĩa, quân giới đã lập công xuất sắc, tự tạo được súng DKZ và SKZ cho bộ đội ta bắn chìm tầu chiến Pháp trên sông Lô. Ở Nam Bộ, kỹ sư Lê Tâm cùng các chiến sĩ quân giới tại Đồng Tháp Mười và chiến khu Đ chế được mìn và đạn lõm SS có sức công phá lớn. Có lần một quả mìn thử nghiệm nổ ngay trên tay anh, may mà chỉ bị thương. Đến đầu năm 1951 những nghiên cứu của quân giới Nam Bộ đã thành công ngoài mong đợi, nhất là với súng đạn lõm SS (còn gọi là súng Rừng Sác) làm cho quân Pháp vô cùng khiếp sợ, sau này trở thành công trình khoa học được trao giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên (năm 1996).

Năm 1952, kỹ sư Lê Tâm trong đoàn với các đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Anh vượt Trường Sơn ra Việt Bắc, chuyến đi kéo dài nửa năm. Khi đoàn nghỉ lại chiến khu Dương Hòa, thuộc Thừa Thiên, Lê Tâm xin phép anh Ba Duẩn tranh thủ về thăm quê. Vượt qua nhiều trảng cát, cánh đồng lởm chởm gai góc, bàn chân ông rớm máu. Gần nửa đêm ông vào nghỉ tại nhà một bà cụ tuổi ngoài 70. Sau khi rửa vết thương, băng cho ông, bà cụ nói: Tôi biết cậu là ai rồi, cậu là cán bộ cao cấp. Ông lắc đầu chối, thì bà cụ cười nói tiếp: Cậu giấu tôi làm gì. Cậu là cậu Hiền, con cụ Thượng Mại ở Niêm Phò phải không? Ông cầm tay bà cụ, hỏi: Sao cụ biết ạ? Trả lời: Có lần tôi đến thăm cụ Mại ở làng, cũng giúp cụ băng bó thế này, thấy chân cậu hoàn toàn giống chân cụ. Ngày đó thì cậu đã đi Pháp được 5 năm rồi, đây là lần đầu tiên tôi gặp cậu, nhưng với bàn chân này thì không thể nói sai được.

Lên Việt Bắc, kỹ sư Lê Tâm nhận nhiệm vụ mới: phá đá mở đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Và ông đã thiết kế, chỉ đạo thi công con đường từ Mục Nam Quan qua Đồng Đăng đến Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên. Hòa bình lập lại, ông lại chỉ đạo phục hồi tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan; Hà Nội-Vinh. Năm 1956, trường Đại học Bách khoa thành lập, theo lời mời của GS.Tạ Quang Bửu, hiệu trưởng đầu tiên của trường, ông về làm chủ nhiệm Khoa Xây dựng, tiền thân của 3 trường đại học sau này là Xây Dựng, Kiến trúc và Thủy lợi. Trước khi nghỉ hưu, ông là cục trưởng Cục Đo lường, đồng thời là ủy viên Ủy ban Khoa học kỹ thuật nhà nước.

Phút thư giãn của kĩ sư Lê Tâm.

Quên sao, má và em

Trích hồi ký Tưởng rằng đã quên: “Một ngày đầu năm 1955. Anh nhân viên văn phòng Tổng cục Đường sắt báo tin má từ Huế ra thăm tôi, đang ở nhà ông Đào Duy Anh, phố Hàng Chuối. Tôi mừng rỡ, nhẩy lên chiếc xe Phượng Hoàng, mấy phút sau đã đến nơi. Một cụ già mở cửa reo: Anh Hiền đến rồi chị Năm ơi! Nhìn vào, thấy anh chị Đào Duy Anh và ba bà cụ trong phòng, có má. Tôi vội chào các bà và nhào vào lòng má, tôi ngước nhìn má, hỏi nhỏ: Từ Huế ra, má có mệt không ạ? Má ôm tôi hỏi: Còn con thì sao, nghe nói con bị thương tật phải không? Rồi má và tôi đều khóc. Tôi hỏi má về tình hình gia đình sau 16 năm đi xa không tin tức gì. Tôi cố giấu không nói, quả thật tôi mấy lần suýt chết ở Nam Bộ và Việt Bắc, chỉ nói bây giờ con đang rất khỏe. Sau này chị Hạnh, người đi với má cho biết, đêm hôm ấy ở nhà cụ Thân Trọng Phát ở phố Nguyễn Gia Thiều, má đã vào phòng tôi lúc đang ngủ để xem xét hồi lâu tay và chân của tôi, đúng là không phải tay chân giả, đến lúc đó má mới an lòng. Má chỉ hơi buồn vì tôi đã 35 tuổi rồi mà chưa lập gia đình, Người nói: Má sẽ ở lại với con cho đến khi thấy mặt cô con dâu của má. Thế rồi sau đó tôi có lệnh chuẩn bị đi cải cách ruộng đất đợt 5, dự trù khoảng 6 tháng. Biết tin má nói: Con đi làm nhiệm vụ nhà nước, má phải về thôi. Rồi má cùng cụ bà Tôn Thất Đàn thuê ô tô xuống Hải Phòng, lúc đó còn có những chuyến máy bay vận tải của Pháp đi Huế từ sân bay Cát Bi.

Một cuộc họp ở Bộ Tư lệnh Nam Bộ năm 1949, người ngồi giữa
mặc áo cộc tay là kỹ sư Lê Tâm.

Trước lúc chia tay, má dặn tôi: Lấy vợ đi, má ra bồng cháu cho. Khi tôi trở về cơ quan, thì bộ trưởng Bộ Giao thông công chính Trần Đăng Khoa ngạc nhiên hỏi: Bà cụ về rồi à? Tôi phải lên báo cáo anh Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) để anh hay. Nửa giờ sau, anh Khoa hớt hải bảo tôi: Anh Tô không bằng lòng, đã ra lệnh anh Lê Dung (Thứ trưởng Bộ Giao thông công chính) lấy xe đuổi theo ô tô hai bà cụ. Lúc anh Lê Dung đuổi theo đến Hải Phòng thì máy bay đã cất cánh trước đó 15 phút rồi. Anh Lê Dung điện về, rất tiếc không giữ đươc má quay về Hà Nội, vì theo anh Tô có thể thu xếp cho tôi không đi cải cách ruộng đất đợt ấy. Tôi đi cải cách đợt 5 chỉ một thời gian ngắn thì có lệnh về Hà Nội, chuẩn bị đi Nhật Bản cùng các anh Xuân Thủy và Trần Huy Liệu họp đại hội thế giới chống bom nguyên tử. Cũng đúng 16 năm sau, má mất ở Miền Nam mà không gặp lại người con trai còn lại duy nhất của má.

Người mẹ của kỹ sư Lê Tâm luôn mong mỏi có cháu nội để bế bồng, đâu biết chỉ 2 năm sau ngày bà ra Hà Nội, con trai đã kết hôn với một thiếu nữ, như duyên trời định. Năm 1939, cụ Tiểu Cao ra ga Huế tiễn Nguyễn Hy Hiền vào Sài Gòn, để từ đó đi tàu thủy sang Pháp du học. Sợ con trai lạ nước lạ cái khi vào đất Sài thành, cụ đã viết thư gởi gắm con cho kỹ sư Nguyễn Xiển, lúc ấy đang làm ở Nha Khí tượng. Ông bà Nguyễn Xiển nhiệt tình đón tiếp cậu thủ khoa tú tài đang độ tuổi đôi mươi. Gần một tháng ở nhà kỹ sư Nguyễn Xiển chờ tàu đi Pháp, con gái đầu của ông bà là Thúy Nhàn mới 4 tuổi “có thói đi theo tôi bất cứ đâu, tôi lên thang gác thì chạy lên, rồi tôi xuống cô bé lại xuống. Bà cụ Nguyễn Xiển mắng yêu: Con bé này hư thật, anh Hiền đi đâu mày cứ quáng chân như vậy, để sau này mày lớn tao gả cho anh…”(Trích hồi ký).

Ông bà Lê Tâm - Thúy Nhàn sau ngày cưới ở Hà Nội (năm 1957).

16 năm sau, Nguyễn Hy Hiền đến thăm ông bà Nguyễn Xiển, đang hàn huyên thì một cô gái bước vào. Cụ bà cười nói: Anh còn nhớ nó không, nó hay chạy theo anh đó. Thúy Nhàn bẽn lẽn chạy vút lên gác. Ông bà Nguyễn Xiển mới hỏi anh đã lập gia đình chưa, thì anh trả lời, đang ế, vả lại bây giờ hết chiến tranh rồi, thất nghiệp, chưa nghĩ đến chuyện ấy. Anh về dạy ở Đại học Bách khoa, rảnh rỗi thường đến thăm gia đình cụ Nguyễn Xiển, gặp Thúy Nhàn và hai người bén duyên nhau. Một ngày giữa tháng 4/1956, Bác Hồ đến thăm gia đình kỹ sư Nguyễn Xiển thì gặp hai người. Bác hỏi bao giờ hai cháu tổ chức lễ thành hôn, rồi tặng một gói kẹo. Đầu năm 1957, đám cưới Lê Tâm-Thúy Nhàn, Bác đã gửi tặng hai cháu 100 đồng.

Xin có một lời cuối: mạn phép được lấy tựa cuốn hồi ký của cụ Lê Tâm làm tựa cho bài viết này. Và người viết cũng muốn nói lời cảm ơn chân thành tới nhà thơ Trần Phương Trà, phó trưởng ban thường trực Ban liên lạc cựu học sinh Quốc học Huế, đã tận tình cung cấp những thông tin cần thiết cho bài viết.

Phạm Quang Đẩu