Doanh nghiệp giấy cạnh tranh khốc liệt
Thị trường giấy trong nước vẫn còn dư địa lớn để các doanh nghiệp (DN) nước ngoài rót vốn đầu tư, nâng công suất hoạt động. Tuy nhiên, “sân chơi” của ngành giấy sẽ thuộc về các DN lớn, có sự đầu tư bài bản (nhất là khối ngoại). Các DN giấy trong nước vẫn tiếp tục phát triển nhưng chiếm lĩnh thị trường cấp thấp hơn, lép vế hơn.
Thị trường giấy Việt Nam đang thuộc về các doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp giấy nội địa thấp
Ông Vũ Ngọc Bảo- Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam (VPPA) cho rằng, việc xuất khẩu giấy bao bì sẽ có triển vọng tăng trưởng tốt trong thời gian tới khi một vài nhà máy giấy lớn sẽ đưa vào vận hành trong năm 2017.
Theo kế hoạch, tháng 6-2017, một nhà máy sản xuất giấy với công suất nửa triệu tấn/năm của Công ty TNHH xưởng giấy Chánh Dương (công ty 100% vốn nước ngoài) ở Bình Dương sẽ được đưa vào vận hành, nâng tổng công suất sản xuất của DN này lên 600.000 tấn/năm - được xem là công ty giấy có công suất lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Đứng thứ 2 phải kể đến Công ty TNHH Giấy Vina Kraft vào tháng 4 vừa qua đã khánh thành nhà máy sản xuất giấy và bao bì thứ 2 ở Bình Dương, nâng công suất sản xuất giấy của Vina Kraft tại hai nhà máy ở Bình Dương là 500.000 tấn/năm. Vina Kraft là liên doanh giữa một công ty con của tập đoàn bao bì SCG tại Thái Lan và Rengo Company Limited của Nhật Bản.
Một nhà máy sản xuất giấy khác có công suất lớn thứ 3 ở Việt Nam là của Công ty TNHH Giấy Lee & Man Việt Nam (do Tập đoàn Lee & Man Paper Hong Kong- Trung Quốc làm chủ đầu tư với 100% vốn nước ngoài) ở Hậu Giang với công suất 420.000 tấn/năm, cũng có khả năng vận hành trong thời gian tới nếu đáp ứng những điều kiện về môi trường. Thời gian qua, nhà máy này gây nhiều tranh cãi trong vấn đề chất thải có nguy cơ gây ô nhiêm môi trường ở vùng ĐBSCL.
Còn nhà máy giấy có công suất lớn thứ 4 thuộc về một DN nội địa, đó là nhà máy của Công ty giấy Sài Gòn với công suất xấp xỉ 400.000 tấn/năm.
Theo ông Vũ Ngọc Bảo, năm 2017, sản lượng của các nhà máy giấy có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đối với giấy làm bao bì thì họ đã chiếm 50% thị trường tại Việt Nam. Chia sẻ về điều này, ông Vũ Ngọc Bảo cho rằng, không nên đặt vấn đề ai thâu tóm ai vì bản thân các DN ngoại thành lập theo luật Việt Nam, nguồn vốn đa dạng. Vị lãnh đạo VPPA nhận định ngay cả các nhà máy giấy của Việt Nam sắp tới đưa lên sàn chứng khoán thì các công ty nước ngoài vẫn có thể được mua. Đáng tiếc là nguồn vốn đầu tư của DN giấy nội địa thấp hơn nguồn vốn nước ngoài.
“Sân chơi” đang thuộc về ai?
Theo ước tính đến năm 2018, công suất của hàng loạt dự án nhà máy sản xuất giấy ở Việt Nam sẽ vào khoảng 3 triệu tấn giấy/năm. Dù nguồn cung cho thị trường sẽ được gia tăng nhưng theo dự báo Việt Nam vẫn còn phải nhập khẩu khoảng 400.000 tấn giấy kraft (giấy tái sinh, dùng nhiều trong công nghiệp và Việt Nam chưa sản xuất được) thay vì phải nhập khẩu 1,6 triệu tấn giấy các loại như hiện nay.
Giới chuyên gia lưu ý các DN giấy Việt Nam sẽ còn phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của hàng nhập khẩu, đặc biệt là ở các phân khúc giấy cao cấp khi mà các DN nội chưa sản xuất được.
Thống kê cho thấy trong ngành giấy cả nước có khoảng 1.000 DN, nhưng 80% là các DN nhỏ lẻ chiếm 80%. Trong khi đó, khoảng 40% nhu cầu giấy công nghiệp phải nhập khẩu từ các nước: Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Hàn, Nhật (trong đó Trung Quốc chiếm cao nhất với hơn 20% kinh ngạch nhập khẩu).
Trên thực tế, mặc dù đầu tư vào ngành giấy tăng mạnh trong các năm qua nhưng sản xuất trong nước vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu, nhất là ở những nhóm sản phẩm tiêu thụ nhiều và DN Việt Nam vẫn chưa sản xuất được sản phẩm giấy bao bì, giấy in viết chất lượng cao.
Tốc độ tăng nhu cầu tiêu dùng cao hơn tốc độ tăng của sản xuất vì vậy tỷ trọng nhập khẩu vẫn cao và tăng qua các năm. Do máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, nên nhiều nhà mày giấy nội địa không sản xuất được hết công suất, vì vậy, khả năng đáp ứng tiêu dùng nội địa càng thấp và tỷ trọng nhập khẩu càng cao.
Trong vấn đề của ngành giấy hiện nay, có thể thấy rằng “sân chơi” đang và sẽ thuộc về các DN lớn, có sự đầu tư bài bản (chủ yếu là DN FDI). Các DN giấy trong nước vẫn tiếp tục phát triển nhưng chiếm lĩnh thị trường cấp thấp hơn, do các loại máy sản xuất dưới 400.000 tấn/năm.
Còn những dây chuyền khoảng 10.000 – 20.000 tấn/năm sẽ bị đào thải dần vì không đủ công nghệ xử lý môi trường và cũng không thể chịu nổi mức xử phạt đã tăng lên rất cao, chứ chưa nói tới năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm.
Cần lưu ý thêm, dù xác định mở rộng quy mô nhưng các DN giấy vẫn chú trọng nhiều hơn vào thị trường trong nước, bởi việc xuất giấy gặp nhiều khó khăn, nhất là về vấn đề giá cả vận chuyển khi sản phẩm giấy có đặc thù là hàng có kích thước lớn nhưng giá trị lại nhỏ.
Tại thị trường nước ngoài, giới chuyên gia nhận định, Việt Nam chưa đủ sức “đấu” lại 2 đối thủ rất mạnh là Thái Lan và Trung Quốc nên cần phải có sự chuẩn bị thận trọng hơn. Trước mắt, thị trường trong nước tuy có nhiều đối thủ nhưng vẫn còn nhiều dư địa. Nhưng đứng trước nguy cơ thâu tóm từ với khối ngoại thì các DN giấy nội địa sẽ phải lựa chọn, hoặc là cạnh tranh đến cùng hoặc là “bán mình”.
Thực ra, thị trường giấy Việt Nam còn nhiều khoảng trống, đặc biệt là phân khúc sản phẩm giấy bao bì và giấy tiêu dùng vốn đang có sự tăng trưởng tốt nhờ vào sức tăng trưởng của nền kinh tế hiện nay. Do đó đây là các mảng thị trường phát triển tiềm năng trong tương lai để các DN giấy nội địa nhắm tới.