Sống bên khu Ramsar
Từ trung tâm huyện Giao Thủy (Nam Định), len lỏi qua nhiều xóm làng, xứ đạo đẹp như một bức tranh, chúng tôi lên tới đê sông Hồng, đoạn gần cửa Ba Lạt. Cả một vùng đầm bãi rộng mênh mông hiện ra trước mắt. Dải sú vẹt xanh thẫm, bạt ngàn phía trước chính là vùng lõi của Vườn quốc gia Xuân Thủy- khu Ramsar đầu tiên ở Đông Nam Á...
Một thợ nuôi ong ở Vườn quốc gia Xuân Thủy.
Trong câu chuyện với chúng tôi, ông Nguyễn Viết Cách - Giám đốc Vườn Quốc gia Xuân Thủy luôn băn khoăn làm thế nào để vừa quản lý, bảo vệ tốt hệ sinh thái vừa khai thác hiệu quả các nguồn lợi của vùng đất ngập nước vùng cửa sông mà cả vùng đệm và vùng lõi rộng tới hơn 15.000 ha, tương đương diện tích một huyện đồng bằng này?
Nói “làm thế nào” là bởi- như lời ông Cách- nguồn lợi sản vật ở đây rất lớn, đa dạng. Từ xa xưa, trước khi có Vườn, người dân vùng đệm đã hiện diện ở đây, lấy khai thác các sản vật ở các đầm bãi, dưới tán rừng là sinh kế chính.
Tất nhiên, chẳng theo luật lệ nào, “mạnh ai nấy làm” và thường bằng các biện pháp thiếu tính bền vững. Kể từ khi Việt Nam tham gia Công ước Ramsar (năm 1989), nhất là khi Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Thủy được nâng cấp thành Vườn quốc gia (năm 2003), được UNESCO công nhận nằm trong vùng lõi Khu dự trữ sinh quyển thế giới vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng (năm 2004) các quy định về bảo tồn, phát huy các giá trị của vùng đất ngập nước này mới từng bước được thiết lập, theo hướng ngày càng chặt chẽ hơn. Nói vậy không có nghĩa từ đó đến nay hệ sinh thái nơi đây không còn bị những tác động tiêu cực.
Đơn giản, diện tích Vườn quá rộng, lực lượng của cả Vườn và chính quyền địa phương mỏng, áp lực sinh kế của người dân lại lớn. “Ước tính, hơn 1.000 ha rừng trong vùng lõi cho người dân khoản thu nhập khoảng 60 tỷ đồng/năm chỉ từ riêng việc khai thác thủy sản.
Vào Vườn đi mò một ngày một người có thể có thu nhập từ 3-500.000 đồng, bằng thu nhập cấy một sào lúa trong mấy tháng. Lợi ích lớn như vậy chỉ cấm đoán thì không hiệu quả!”- ông Cách nhìn nhận.
Trong bối cảnh đó, theo vị Giám đốc, cơ chế đồng quản lý để cùng bảo vệ, cùng chia sẻ lợi ích từ rừng, từ đầm bãi là một lựa chọn hữu hiệu.
Theo đó, được Chính phủ, chính quyền địa phương cho phép; được tư vấn, tài trợ của một số tổ chức phi chính phủ, thời gian qua mô hình này đã được Vườn phối hợp thí điểm triển khai ở một số khu vực, gồm hai mô hình đồng quản lý về rừng ngập mặn ở vùng lõi và vùng đệm; về sử dụng bền vững tài nguyên dược liệu ở khu vực Cồn Lu; về khai thác bền vững tài nguyên ngao giống ở vùng cửa sông Hồng; về quản lý khu nuôi ngao quảng canh bền vững và về sử dụng khôn khéo tài nguyên rừng ngập mặn.
Trước khi triển khai, theo ông Cách, là hàng loạt các hoạt động truyền thông, tham vấn, tập huấn, ký cam kết. Điểm nhấn của các mô hình là người dân được giao đất, được trao quyền khai thác các nguồn lợi dưới tán rừng trên cơ sở phải tuân thủ nghiêm các quy định về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm. “Hiệu quả của các mô hình này rất tốt.
Từ chỗ vi phạm pháp luật người dân được trao quyền, được thực hiện các sinh kế trong đất Vườn một cách chính danh. Phía Vườn, chính quyền địa phương, các lực lượng chức năng cũng “nhẹ gánh” hơn, chỉ phải tập trung lo việc giám sát.
Trách nhiệm, quyền lợi của các bên liên quan được xác định rõ ràng, không còn “hỗn mang” như trước. Những mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển tồn tại lâu nay nhờ vậy từng bước được giải quyết”- ông Cách phân tích.
Cũng phải thôi, rừng ngập mặn ven biển được ví như “bức tường xanh” bảo vệ đê biển, bảo vệ xóm làng trước gió bão. Rừng còn thì sinh kế, nguồn sống của người dân còn và ngược lại. Ai cũng hiểu, lẽ nào người bản địa lại không?