Giếng Chăm ở Quảng Phương

Xuân Thi -  Tiến Dũng 25/07/2017 08:10

Tính riêng trong thôn Pháp Kệ (xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình) hiện còn có 4 giếng Chăm cổ, phục vụ đời sống sinh hoạt, tưới tắm mùa màng. Đây là những giếng Chăm ngàn tuổi vẫn còn tồn tại ở mảnh đất này.

Giếng Chăm ở xã Quảng Phương có kiến trúc độc đáo.

Sinh sống chủ yếu ở những miền đất núi đồi nên nguồn nước với người Chăm chính là mạch dòng dưỡng nuôi sự sống. Trước đó, nước dùng để sản xuất được người Chăm cần mẫn bắt dẫn từ các mạch nước ngầm chảy ra từ đá núi, khe đồi còn nước sinh hoạt thì bắt buộc họ phải chắc lọc từ các hồ chứa tự nhiên và sử dụng cả chum vại gốm sứ để dự trữ phòng khi cần đến. Thế nhưng, tất cả những hình thức lấy nước đó không bảo đảm được cho tính lâu dài phục vụ mục đích sinh trưởng nên bắt buộc người Chăm phải nghĩ đến việc đào giếng.

Ban đầu họ múc ở những vị trí mà họ cho rằng có mạch nước ngọt rồi cứ thế lấy đá xếp thành từng chồng từ thấp đến cao tạo thành giếng nước. Dần dà, giếng nước của người Chăm được thiết kế bài bản tuân theo quy chuẩn phong thủy. Đào giếng bao giờ cũng là một việc làm hệ trọng trong đời của dân Chăm, có thế mà giếng Chăm ở đâu cũng khơi nguồn trong trẻo mang đến bội thu mùa màng, bồi bổ sức khỏe, quyết định đến sự phát triển giống nòi.

Giếng của người Chăm thường có 3 kiểu cấu trúc, hình tròn, hình vuông hoặc trên tròn dưới vuông. Trước khi đào giếng, người Chăm đã tỉ mẫn lựa từng viên đá tổ ong cứng chắc, mang ra phơi ngoài mưa nắng càng nhiều thời gian càng tốt để đủ độ lì rồi mới bắt tay vào đào giếng. Đào đến lúc gặp được mạch nước ngầm vọt lên thì người xưa thường lấy một khung gỗ chắc chắn bằng gỗ lim, kích thước vuông, tròn tùy theo kiểu dáng của giếng để đặt vào tầng dưới cùng, gần đáy giếng nhất. Các cụ cao niên trong làng giải thích, rằng nhằm giữ cho thành giếng không bị lún sụt và kéo dài được tuổi thọ của giếng.

Tiếp đến người ta lần lượt xếp từng lớp đá tổ ong theo vòng, từ dưới lên trên. Theo thước tấc của người Chăm thì miệng giếng phải bảo đảm cao hơn mặt đất tầm nửa mét. Nước giếng quanh năm chảy ra từ kẽ hở của đá tổ ong nên lúc nào cũng mát lành và xanh trong. Ngày nắng hạn cũng như mùa mưa lũ nước trong giếng vẫn giữ mức ổn định, luôn luôn thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nguồn cơn ngọt mát tự nhiên của người dân.

Có một chi tiết độc đáo trong cấu trúc của những giếng Chăm cổ đó là có ba phần liền nhau; trong đó phần lưng bệ thờ là phần thứ nhất, tiếp đến là phần bệ thờ thuộc phần giữa và giếng nước ở phần sau cuối và trung tâm nhất. Điều này hoàn toàn ứng với hình tượng Linga trong điêu khắc của người Chăm pa cũng như nhân sinh quan triết học Ấn Độ. Đó là ý niệm về sự tôn sùng mọi lúc mọi nơi đối với ba vị thần của Ấn Độ giáo (Brama, Visnu, Siva). Sau nữa là lời giải thích về thế giới quan bằng ba giai đoạn tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng ở trong trời đất bao gồm: sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt.

Khi được hỏi về giếng Chăm, người dân bản địa đều say sưa nói hết hiểu biết của mình về báu vật của làng mà bao đời nay họ may mắn sở hữu. Giếng cổ người Chăm đâu đâu cũng bố cục “cây đa, giếng nước, sân đình” hao hao giống lối dựng xây cổ truyền của người Việt. Bởi vậy, đó luôn là không gian yên bình, ấm áp tình làng nghĩa xóm.

Giếng Chăm, giếng thiêng, thần giếng là những tên gọi trìu mến đã có trong tiềm thức của người dân. Bởi thế, khi hội hè, đình đám hay khi khi lễ tết, cầu an, nhân dân đều dọn cỗ để trịnh trọng khẩn mời và cầu xin may lành từ giếng thiêng. Nét đẹp đó đã có từ ngàn đời nay và vẫn đang được tiếp tục trao truyền.

Xuân Thi -  Tiến Dũng