Nhớ về Chủ tịch Lê Quang Đạo
Tôi có may mắn lớn là cho đến nay đã liên tục được giúp việc và cộng tác với cả 8 vị Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam. Đó là Chủ tịch Hoàng Quốc Việt, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Lê Quang Đạo, Chủ tịch Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch Huỳnh Đảm, Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân và đến nay là Chủ tịch Trần Thanh Mẫn.
Cố Chủ tịch Lê Quang Đạo.
Đối với Chủ tịch Lê Quang Đạo- người mà tôi được biết từ những năm đầu của thập niên 70 khi anh còn ở trong quân đội, song chỉ trực tiếp được làm việc với anh khi anh làm Chủ tịch Quốc hội kiêm Bí thư Đảng đoàn Mặt trận, nhất là từ đầu năm 1992 khi Đảng đoàn Mặt trận được giao trách nhiệm giúp Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) chuẩn bị Nghị quyết của Bộ Chính trị “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”, giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng Luật Mặt trận và Luật Quốc tịch.
Trong bài này tôi muốn kể lại những kỷ niệm được cùng anh chuẩn bị Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị.
Từ khi còn làm Chủ tịch Quốc hội kiêm Bí thư Đảng đoàn Mặt trận, anh đã nhiều lần trao đổi với anh em chúng tôi về sự cần thiết phải có một nghị quyết chuyên đề của Đảng về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm cụ thể hóa Cương lĩnh 1991 của Đảng và Hiến pháp 1992, trong đó thể hiện cho được tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn mới của cách mạng.
Theo anh, trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, muốn đổi mới công tác Mặt trận, trước hết phải đổi mới nhận thức về sự lãnh đạo của Đảng đối với đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất. Vì đổi mới nhận thức về sự lãnh đạo của Đảng là xuất phát điểm, là yếu tố quyết định để đổi mới tổ chức, chính sách Mặt trận cũng như phương thức hoạt động của tổ chức này.
Vì tính chất quan trọng của vấn đề mà anh đã ấp ủ từ lâu nên khi về chuyên trách Mặt trận, việc đầu tiên anh đưa ra bàn trong Hội nghị Đảng đoàn là làm tờ trình Bộ Chính trị cho phép Đảng đoàn Mặt trận Trung ương cùng Ban Dân vận Trung ương soạn thảo Nghị quyết trên.
Được sự đồng ý của Bộ Chính trị, với sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Vũ Oanh lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị, đồng chí Trương Mỹ Hoa- Bí thư Trung ương Đảng (khóa XII) phụ trách Dân vận - Mặt trận, Đảng đoàn thành lập tổ soạn thảo Nghị quyết và phân công đồng chí Lê Quang Đạo trực tiếp phụ trách và tôi giúp anh chấp bút.
Kế hoạch làm việc được anh xây dựng một cách hết sức cụ thể và chi tiết. Song song với việc tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 17 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” phải đặc biệt coi trọng việc lấy ý kiến của các đồng chí phụ trách Đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận, ý kiến của các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư các khóa, các đồng chí lão thành trong công tác Dân vận - Mặt trận qua các thời kỳ cách mạng, các đồng chí cán bộ Mặt trận có lý luận và khả năng tổng kết nay đã nghỉ hưu, các nhân sĩ, trí thức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài v.v…
Đọc lại cuốn sổ tay mà tôi đã ghi chép ý kiến đóng góp của từng người mới thấy anh làm việc rất bài bản và có sự tính toán kỹ lưỡng. Trong số 70 người, anh em chúng tôi đến gặp và xin ý kiến có các đồng chí và các vị: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười, Võ Chí Công, Tố Hữu, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Đức Tâm, Hoàng Tùng, Trần Quang Huy, Trần Bạch Đằng, Phan Văn Đáng (tức Hai Văn), Nguyễn Xuân Oánh (nguyên Phó Thủ tướng thời Nguyễn Văn Thiệu), cụ Nguyễn Văn Huyền, bà Phước Đại (nguyên Chủ tịch và Phó Chủ tịch Thượng viện Sài Gòn) v.v…
Một hôm, anh Đạo điện bảo tôi: Chúng ta cần nghiên cứu thêm về đại đoàn kết trong cuộc sống đời thường của Bác Hồ. Thế là sáng hôm sau, hai anh em cùng đồng chí Hà Ngọc Lân- người phụ trách máy ghi âm đến gặp đồng chí Vũ Kỳ- Thư ký riêng của Bác.
Anh Đạo với anh Vũ Kỳ vốn là những người bạn thân thiết. Gặp lại nhau, biết bao chuyện cũ được kể lại, trong đó có chuyện anh Vũ Kỳ hỏi:
- Anh còn nhớ Bác nói gì về chúng mình khi Bác từ nhà sàn đi xuống?
- Mình được Bác gọi đến làm việc nhiều lần, mình không nhớ cậu định hỏi lần nào?
- Lần Bác cười nhận xét: Hai chú thấp như nhau- anh Vũ Kỳ đáp.
- Ông nhầm rồi. Bác cười và nói: Hai chú cao bằng nhau. Và sau đó ông còn thêm: “Thưa Bác, anh Đạo là thiếu tướng, cao hơn tôi nhiều”.
Bác rất vui và quay về phía ông, nói thêm: “Chú không thua đâu, chú là thừa tướng đấy”.
Làm hết buổi sáng, trưa hôm đó, đồng chí Vũ Kỳ mời cơm hai anh em tôi với mấy ly rượu thuốc trước đây Bác thường dùng. Nâng cốc rượu, anh Đạo nói:
-Hôm nay, mình rất vui được đến làm việc với ông. Xin chúc mừng ông mà cũng là tự chúc mừng mình là đã góp phần tìm được người thư ký riêng suốt đời của Bác mà Bác Hồ rất ưng ý.
Anh Vũ Kỳ kể lại: Đầu năm 1940, anh Đạo giới thiệu anh Vũ Kỳ vào Đoàn thanh niên phản đế và sau đó giới thiệu đi học tập quân sự ở Trung Quốc. Cũng chính anh Đạo lại về Hà Nội tìm anh Vũ Kỳ đưa làm thư ký riêng cho Bác Hồ cho đến ngày Bác đi xa...
Trước khi trình Bộ Chính trị bản dự thảo Nghị quyết lần cuối, anh Đạo có buổi tối làm việc tại nhà anh Vũ Oanh. Làm việc xong, tuy đã khuya anh Oanh mời anh Đạo ở lại để hỏi thêm một số việc có liên quan đến quá trình hoạt động của mình như: ngày, tháng kết nạp Đảng; thời gian anh Đạo mở lớp tập huấn đầu tiên tại nhà anh Oanh ở làng Mộ Trạch, huyện Bình Giang, Hải Dương... Theo anh Oanh, lúc đó anh Đạo là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Ban cán sự Hà Nội người trực tiếp giảng bài cho lớp tập huấn tại nhà anh Oanh và anh Oanh là một học viên của lớp đó.
Qua những người tôi được tiếp xúc, được nghe kể về cuộc đời và sự nghiệp của Anh, tôi càng thấm thía lời phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười đánh giá về Anh khi tiếp đồng chí Uđôm Kháttinhạ- Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ tịch Mặt trận Lào xây dựng đất nước: “Đồng chí Lê Quang Đạo là lão thành cách mạng, là nhà lý luận của Đảng chúng tôi đó”.
Được giúp việc anh nhiều năm, nhất là được cùng anh chuẩn bị dự thảo Nghị quyết trên, tôi càng hiểu sâu thêm về nhận xét của đồng chí Tổng Bí thư. Tôi khâm phục sự hiểu biết uyên thâm trên nhiều lĩnh vực cũng như tài tổng hợp, phân tích dự báo tình hình và đề xuất vấn đề của anh. Đặc biệt, tôi mến mộ và kính trọng phẩm chất, đạo đức của anh, một lãnh đạo kính trên, nhường dưới, hết mình vì dân, vì nước, vì anh em, đồng chí, đồng đội.
Ngày 17/11/1993 Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất” được ban hành tạo ra bầu không khí hòa hợp, tin tưởng, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nghị quyết đã góp phần quan trọng để kết dính mọi người mang trong mình dòng máu “Con Lạc, cháu Hồng” thành một khối thống nhất, tạo ra động lực mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta.