'Báu vật' bên dòng Nậm Luông

Nguyễn Thế Lượng 11/08/2017 08:15

Từ thị trấn Phố Ràng (Bảo Yên- Lào Cai), dọc theo Quốc lộ 279 theo hướng Đông Bắc, chúng tôi đến xã Nghĩa Đô, nơi sinh sống từ bao đời nay của đồng bào Tày. Đó là một vùng quê giữa đại ngàn, đậm đà truyền thống văn hóa dân gian. Vốn văn hóa ấy được coi là báu vật cổ truyền của đồng bào người Tày nơi đây.

Cọn nước - một vẻ đẹp mang đậm bản sắc văn hóa Tày Nghĩa Đô.

Vốn văn hóa dân gian phong phú

Lòng chảo Nghĩa Đô được bao bọc bởi những triền núi cao sừng sững với rừng xanh ngút ngàn. Dòng suối Nậm Luông chảy giữa các bản làng người Tày, những ngôi nhà sàn nằm chênh vênh bên ven suối gợi lên một khung cảnh hữu tình.

Từ bao đời nay, đồng bào Tày định cư ở vùng đất này và một điều thật quí mà hiếm có vùng đất nào có được là từ trong chính cuộc mưu sinh dài vô tận của mình, đồng bào đã sáng tạo ra một vốn văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa cổ truyền. Vốn văn hóa ấy mỗi khi nhắc đến, đồng bào Tày nơi đây không khỏi tự hào.

Ông Ma Thanh Sợi- Bí thư chi bộ bản Rịa, xã Nghĩa Đô, người sinh ra và lớn lên trong lòng bản Tày, người dày công sưu tầm văn hóa dân gian Nghĩa Đô cho biết: “Người Tày sinh sống ở Nghĩa Đô từ lâu đời, trong hành trình mưu sinh, đồng bào Tày đã tạo cho mình một vốn văn hóa dân gian vô cùng phong phú, mang đậm bản sắc”.

Vốn văn hóa dân gian ở Nghĩa Đô bao gồm văn học dân gian là hàng trăm câu tục ngữ, câu đố, câu hát đồng dao, truyện cổ. Văn hóa tín ngưỡng tâm linh gồm các bài cúng, tang ma, các phong tục tập quán. Văn hóa âm nhạc dân gian gồm hát ru, hát then.

Hiện tại, ông Ma Thanh Sợi đã sưu tầm được 18 truyện cổ, 222 câu đố, các phong tục làm nhà, cưới, sinh đẻ, các món ăn, các loại bánh, tập quán hái lá thuốc chữa bệnh... Ông còn dành nhiều công sức nghiên cứu lịch sử ngôi đền thiêng thờ chúa Bầu dưới chân núi Khau Rịa ở Nghĩa Đô.

Tập sưu tầm nghiên cứu của ông đã dày tới 2.760 trang chép tay và đã được in thành sách sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Nghĩa Đô. Những năm gần đây, nhiều sinh viên là người Lào Cai đã thực hiện nghiên cứu văn hóa dân gian Nghĩa Đô trên nhiều lĩnh vực như tang ma, phong tục làm nhà sàn, hát then, văn học, lễ hội xuống đồng, lễ ăn cơm mới…với nhiều công trình như luận văn, khóa luận tốt nghiệp.

Lễ cúng trong tang ma của người Tày Nghĩa Đô.

Đối với đồng bào Tày Nghĩa Đô, nhà sàn là biểu tượng thiêng liêng. Không gian ấm áp ấy chất chứa biết bao phong tục, tập quán của cư dân Tày vùng này. Hiện nay, Nghĩa Đô có trên 200 ngôi nhà sàn quần tụ dưới thung lũng, bên bờ suối Nậm Luông.

Đó là biểu tượng của nét văn hóa bản địa giàu bản sắc. Người Tày Nghĩa Đô còn có nghề dệt thổ cẩm truyền thống từ lâu đời. Khi con gái về nhà chồng thì phải biết thêu thùa, dệt gối, dệt chăn bằng thổ cẩm để mang về nhà chồng.

Nói đến Nghĩa Đô, người ta không quên nhắc tới văn hóa ẩm thực ở vùng này. Các món ăn ở Nghĩa Đô làm từ những thực phẩm của chính nơi đây chứ không mua bán ở nơi nào khác. Đó là món mẻ nuôi ngấu chua được chưng với cá suối đuôi đỏ dùng làm món chấm măng rừng hay có thể là món rêu đá gói lá rong rừng xanh ngắt nướng trên bếp than, rồi cả một nong bánh trưng được gói bằng lá chít xanh vào mỗi ngày rằm tháng bảy…

Phụ nữ Tày Nghĩa Đô bên khung cửi truyền thống.

Nỗi lo của những “truyền nhân”

Nghệ nhân Ma Thanh Sợi giờ đã trên 80 tuổi cho biết: “Chúng tôi rất lo lắng vì nếu thế hệ những người già mất đi sẽ mang theo cả “kho báu” của người Tày xuống lòng đất. Và thế là cháu con chẳng biết gì về văn hóa của mình”.

Đó chính là động lực để ông Sợi hy sinh cả lợi ích riêng tư, thời gian và công việc gia đình để ngày đêm ghi chép theo trí nhớ của mình về những gì mà Nghĩa Đô có được.

Ông Sợi cho biết, suốt những năm qua, ông đã lục tìm lại trong trí nhớ của mình rồi ghi chép lại được hàng ngàn câu tục ngữ, những câu truyện cổ của người Tày, hơn 300 lời hát ru chính gốc của người bản địa. Ông còn tìm ra sự độc đáo của câu nói Tày Nghĩa Đô mà không nơi nào có được.

Đồng hành với ông Ma Thanh Sợi, bà Hoàng Thị Than - dân tộc Tày, đã bước vào tuổi 78 nhưng vẫn kiên trì lưu giữ những bài thuốc cứu người mà chỉ bà mới biết được. Ở cái tuổi đáng ra đã được nghỉ ngơi dưỡng già, vậy mà, cứ ngày qua ngày, bà lại “tay dao, tay thuổng” trèo đèo, lội suối, vào rừng sâu để tìm lá thuốc. Bí quyết hái thuốc chữa bệnh được bà Than lưu giữ đã hơn 40 năm nay ở bản Tày.

Không chỉ có riêng ông Sợi, bà Than mà còn nhiều những tấm gương người già khác đã và đang ngày đêm tìm lại kho báu văn hóa dân gian của người bản mình. Điều tâm niệm của họ là không phải tìm lại những giá trị ấy để làm giàu cho bản thân hay gia đình mình mà cao cả hơn đó là giữ lại và lưu truyền những giá trị mà người Tày Nghĩa Đô có được trong bao đời qua.

Những năm gần đây, các trường học ở Nghĩa Đô đã đưa văn hóa cổ truyền vào các hoạt động ngoại khóa nhằm giúp thế hệ trẻ biết gìn giữ những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống. Nhiều trường học lồng ghép tổ chức cho học sinh thực hành hát then, biểu diễn trang phục Tày, các trò chơi dân gian như bắn nỏ, đẩy gậy…

Tại các buổi ngoại khóa, các nhà trường đã chủ động mời các nghệ nhân sưu tầm và thuộc nhiều bài then cổ đến nói chuyện về nguồn gốc, giá trị và việc diễn xướng của hát then.

Khi đưa câu then và văn hóa dân gian Tày vào hoạt động giáo dục ở các nhà trường trên địa bàn xã Nghĩa Đô , đa số học sinh thấy gần gũi và nhanh chóng hiểu được giá trị cũng như ý nghĩa của văn hóa bản địa trong đời sống của đồng bào Tày từ bao đời nay. Từ đó, các em thêm yêu, thêm gắn bó và có ý thức giữ gìn vốn văn hóa bản Tày.

Nguyễn Thế Lượng