Khi học sinh trầm cảm
Một thời gian dài người ta vẫn tin rằng trầm cảm là chuyện riêng của người lớn, nhưng khoảng 2 thập kỷ trở lại đây khoa học đã nhìn nhận nghiêm túc rằng trẻ em trầm cảm ngày một nhiều.
Ảnh minh họa
4-8% vị thành niên mắc chứng trầm cảm
Báo cáo Sức khỏe vị thành niên thế giới 2014 nêu rõ trầm cảm là nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh tật và tàn tật ở độ tuổi vị thành niên (10-19 tuổi), quá nửa các rối loạn tâm thần xuất hiện trước tuổi 14 nhưng thường bị bỏ sót. Theo Viện hàn lâm tâm thần nhi khoa Mỹ, khoảng 2% trẻ nhỏ và 4-8% vị thành niên mắc chứng trầm cảm, nghĩa là khoảng 6-10% trẻ em nói chung mắc chứng bệnh này. Trung bình cứ 10 trẻ thì có một bị trầm cảm khi lên 16 tuổi.
Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu của BV tâm thần ban ngày (Hà Nội) với trên 1.200 học sinh ở HN (bậc tiểu học và THCS), có gần 19,4% học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần chung, trong số các ca tự sát có 10% ở lứa tuổi từ 10 đến 17, nguyên nhân chủ yếu là do áp lực học hành. Theo đó, bức xúc tìm đến cái chết là nguyên nhân gây tử vong thứ hai ở những người trẻ tuổi, chỉ đứng sau tai nạn giao thông. Đây thực sự là hiện tượng đáng báo động.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh mắc chứng trầm cảm. Nhưng nguyên nhân chính qua thư tuyệt mệnh mà các em để lại là do áp lực học hành, thầy không hiểu trò, có lời xúc phạm trò, kỳ vọng của cha mẹ. Khi đã mắc triệu chứng căn bệnh này, các em thường tự giải quyết mà cha mẹ không hề biết rằng con mình mắc bệnh.
Theo các chuyên gia y tế và giáo dục, ở độ tuổi học sinh, do những thay đổi về hormone tăng trưởng trong giai đoạn dậy thì khiến khả năng kiềm chế tâm lý của các em rất kém. Trầm cảm ở trẻ em bao gồm các rối loạn cảm xúc, có biểu hiện mệt mỏi, ủ rũ, dễ bị tổn thương, tinh thần căng thẳng, dễ tức giận, nổi nóng và không hứng thú với việc học hành. Trầm cảm có nguy cơ tái phát rất cao, đợt sau nặng hơn đợt trước và có thể dẫn tới toan tính tự tử, tự tử thành công. Trẻ em từng bị một đợt trầm cảm có nguy cơ bị đợt tiếp theo trong vòng 5 năm.
Những hành động khó lường
Ngày 2/10 vừa qua, người dân ở khu đô thị Tây Đô - Hà Nội đã bàng hoàng khi chứng kiến cái chết của một nữ sinh 16 tuổi đang học tại một trường chuyên ở Hà Nội. Theo nhà trường, gần đây nữ sinh này có biểu hiện trầm cảm. Không làm chủ được cảm xúc, em gieo mình từ tầng 25 xuống đất. Theo người thân, bố mẹ của nạn nhân đã ly hôn.
Trước đó, chiều 30-9, một nam sinh lớp 10 ở Quảng Ninh để lại thư tuyệt mệnh rồi nhảy từ tầng 5 trong khuôn viên nhà trường. Trước đó nữa, vào tháng 7, Nguyễn Đức A. (SN 1998, quê Thanh Hóa), sinh viên năm nhất Học viện Bưu chính Viễn thông, được cho là đã nhảy từ trên tầng cao của khu ký túc xá Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội xuống đất, tử vong. Được biết, gia đình A. có hoàn cảnh đặc biệt, mẹ mất 8 năm nay, bố có biểu hiện không bình thường.
Nhiều chuyên gia cho rằng tỉ lệ thanh thiếu niên bị trầm cảm ngày càng nhiều hơn. Đáng lo ngại là khi trầm cảm nặng, người bệnh luôn có ý nghĩ chết chóc, muốn tự sát. Trung bình mỗi ngày tại Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai tiếp nhận khoảng 200 bệnh nhân đến khám, trong đó có nhiều em chỉ 15-16 tuổi.Tuy nhiên, theo các bác sĩ điều trị rối loạn tâm thần, là phần lớn bệnh nhân trầm cảm đều không được nhận biết và điều trị sớm; 80% bệnh nhân trầm cảm thường chậm trễ trong việc phát hiện và điều trị ...
Theo TS. Cao Vũ Hùng - trưởng khoa Thần kinh (Bệnh viện Nhi trung ương), tự sát cũng là một triệu chứng rất quan trọng và nghiêm trọng trong bệnh trầm cảm tuổi vị thành niên, ở các mức độ khác nhau từ ý tưởng đến có hành vi tự sát. Trẻ thực hiện hành vi tự sát bằng các hình thức khác nhau như uống thuốc, đập đầu vào tường, thắt cổ, cắt mạch máu,… và thường xảy ra ở bệnh nhân có mức độ trầm cảm nặng.
Giúp trẻ gỡ rối
Đánh giá về hiện tượng ngày càng nhiều học sinh tìm đến cái chết để giải quyết những khúc mắc trong cuộc sống, PGS.TS Trịnh Hòa Bình, Giám đốc Trung tâm Điều tra dư luận xã hội - Viện Xã hội học, cho rằng ở giai đoạn dậy thì, trẻ thường rất nhạy cảm, mong manh trong tâm hồn và cách nghĩ nên khi có những rắc rối dù rất nhỏ cũng dễ dàng suy sụp. Do vậy, trong giai đoạn này rất cần sự quan tâm của gia đình, bạn bè và nhà trường để có thể động viên, gỡ rối giúp các em vượt qua những áp lực từ cuộc sống hằng ngày. Trong khi đó, điều dễ nhận thấy là đa số trường hợp học sinh tự tử thường là những em chăm ngoan, rất ít bị trách phạt.
Theo ThS Lê Thị Phi, trường ĐH Sư phạm (ĐH Đà Nẵng) hiện nay, học sinh đang đối diện với rất nhiều vấn đề khó khăn trong cuộc sống hằng ngày như: Bạo lực học đường, quan hệ với bạn bè, thầy cô, bố mẹ, áp lực học tập cùng với những kỳ vọng của cha mẹ, của xã hội đối...
Trong khi đó, lứa tuổi học sinh là giai đoạn của quá trình hình thành và phát triển mạnh mẽ về nhân cách, trải nghiệm cuộc sống chưa nhiều, năng lực giải quyết vấn đề khó khăn còn hạn chế, trước áp lực nhiều mặt của cuộc sống dễ gây cho các em trầm cảm. Trong đó việc nghiện internet cũng là một trong những nguyên nhân đưa các em đến chỗ suy sụp cả sức khỏe và tinh thần. Vì thế, gia đình, phụ huynh phải định hướng cho con em về việc sử dụng internet một cách hợp lý, đặc biệt là đối với các em ở lứa tuổi học sinh THCS.
PGS.TS Nguyễn Phương Hoa, Bộ môn Y tế gia đình Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, cho biết có nhiều bậc phụ huynh khi tìm đến tư vấn tâm lý thừa nhận rằng họ không thường xuyên trò chuyện với con. Một phần vì không có nhiều thời gian, phần vì không có “tiếng nói chung”. Cũng có những trường hợp cha mẹ sẵn sàng lắng nghe nhưng lại xem nhẹ vấn đề của con, coi đó chỉ là chuyện trẻ con. Khi bị cha mẹ không để tâm, trẻ sẽ dễ tổn thương, chán chường, nghĩ rằng cha mẹ không quan tâm hay yêu thương mình. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ có thể đẩy trẻ đến hành vi tự tử.
Về vấn đề này, TS Vũ Thu Hương, giảng viên Trường ĐH Sư phạm Hà Nội phân tích, ở độ tuổi học sinh, do những thay đổi về hormone tăng trưởng trong giai đoạn dậy thì khiến khả năng kiềm chế tâm lý của các em rất kém. Khi có biến cố, thường các em sẽ không đủ bình tĩnh để phân tích đúng sai và đưa ra quyết định tự tử rất nhanh.
Vì vậy, với học sinh, TS Hương khuyên các em cần xây dựng thời gian biểu một cách khoa học để có sự phân bố thời gian học tập, lao động, vui chơi giải trí hợp lý; có kế hoạch ôn thi cụ thể, khoa học, hợp lý để tránh stress; tham gia các hoạt động trò chơi lành mạnh, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, người thân và thầy cô giáo...