Cần bài toán kinh tế dài hạn cho đặc khu
“Vốn trái phiếu Chính phủ năm nay mới giải ngân được 30%, vậy tại sao số 70% còn lại không linh hoạt đưa vào cho các dự án như đặc khu kinh tế, nơi đang rất cần vốn?”.
Về vấn đề này, ông Trần Anh Tuấn - quyền viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh đã trao đổi với Đại Đoàn Kết.
Ông Trần Anh Tuấn.
PV:Tại kỳ họp Quốc hội này, dự án Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt cũng như các đề án xây dựng 3 đặc khu kinh tế là nội dung mới đang thu hút sự quan tâm, tranh luận. Những vấn đề gì cần đặt ta ở đây, thưa ông?
Ông Trần Anh Tuấn: Nói về đặc khu kinh tế thì có 3 vấn đề cần quan tâm là chính sách về đất đai, về thuế - tài chính và mô hình tổ chức bộ máy hành chính mang tính đặc thù.
Tôi đặc biệt quan tâm tới những nhóm ưu đãi được đề xuất trong dự thảo luật. Muốn thu hút nguồn lực bên ngoài vào đặc khu thì rõ ràng trong khu vực đó cần một chính sách ưu đãi rất lớn, trong đó có ưu đãi về thuế để biến nơi đây thành một điểm trung chuyển, một dòng luân chuyển lớn của hàng hóa, tiền tệ, thúc đẩy phát triển. Tất cả các đặc khu đều phải làm thế.
Đề cập đến những ưu đãi về đất đai, về thuế - phí, nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng các loại ưu đãi không hẳn là yếu tố quyết định mang lại thành công cho mô hình này?
- Thực sự với đặc khu kinh tế, mình xét tính lan tỏa nhiều hơn là lợi ích về nguồn thu từ thuế, phí. Đặc khu sẽ là nơi kết nối sản xuất trong nước và ngoài nước, tạo sức lan tỏa ra các thị trường khác.
Sự thu hút về sản xuất của đặc khu, nếu ta đáp ứng được các tiêu chuẩn cần thiết, sẽ tạo “cầu” lớn kết nối sản xuất trong nước với nước ngoài. Hấp thụ được đầu tư vào đặc khu, trong nước sẽ có cơ hội bổ sung được những mặt hàng chưa sản xuất, đáp ứng được.
Theo đó, đặc khu sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lên nội địa, buộc hàng hóa sản xuất trong nội địa phải tốt hơn. Như vậy, bài toán đặt ra, đứng trên góc độ quản lý nhà nước, tính lan tỏa, quy tụ nguồn lực sản xuất, chuyển giao công nghệ là yếu tố quyết định hơn so với vấn đề nguồn thu.
Trong thời gian tới, để đưa 3 đặc khu vào vận hành, cần huy động được một lượng vốn lớn (như Phú Quốc dự kiến cần hơn 40 tỷ USD, Vân Đồn cần 270.000 tỷ đồng) từ ngân sách đến các nguồn lực xã hội?
- Vấn đề là chúng ta cần cân đối được nguồn lực của Nhà nước, của ngân sách và nguồn lực thu hút được từ bên ngoài, chứ nếu chỉ dùng nguồn lực của nhà nước thôi thì không cách nào làm được.
Thời gian đầu xây dựng đặc khu cũng không thể đưa ra bài toán về nguồn thu để xét hiệu quả chung của “món” đầu tư này.
Hiệu quả dự án phải xem xét trong thời gian dài hạn hơn, tính tới sự lan tỏa trong sản xuất, trong thu hút nguồn lực, chuyển giao công nghệ để có sự phát triển bền vững. Các đặc khu tạo nên nguồn thu và ngân sách bền vững chứ xét trong ngắn hạn thì chưa thể đánh giá được.
Theo tính toán, trong khoảng 5 năm đầu, mỗi đặc khu cần được rót 2.100-2.500 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương để đầu tư tạo dựng ban đầu. Trong bối cảnh ngân sách khó khăn hiện nay, việc này có khả thi?
- Nói mỗi đặc khu cần đầu tư khoảng 2.500 tỷ đồng/năm chẳng hạn nhưng so với tổng nguồn vốn đầu tư cho phát triển hàng năm khoảng 1,6 triệu tỷ đồng thì sẽ thấy là có thể cân đối nguồn lực chung.
Ví dụ, vốn trái phiếu Chính phủ, như năm nay, chúng ta mới chỉ giải ngân được 30%, nghĩa là bị động, tiền không sử dụng mà vẫn phải trả lãi.
Vậy thì tại sao số 70% còn lại ta không đưa vào cho các dự án như đặc khu kinh tế, nơi đang rất cần vốn. Cần phải linh hoạt để từng đồng vốn được sử dụng hiệu quả.