Kỷ niệm về một lần hoạ sĩ Bửu Chỉ vẽ chân dung
Bửu Chỉ là một gương mặt độc đáo trong làng hội họa. Sinh ra ở Huế, anh là con cụ Ưng Thuyên, cháu thi sĩ Tuy Lý Vương, hậu duệ năm đời vua Minh Mạng, mẹ là bà giáo Nguyễn Thị Trâm rất giỏi tiếng Pháp. Anh tốt nghiệp đại học luật (1971) vào những năm phong trào chống chiến tranh lên cao trước hiệp định Paris. Là Tổng Thư ký Hội Sinh viên Sáng tác Huế, anh là một trong những sinh viên năng động nhất những ngày xuống đường, những đêm không ngủ.
Bửu Chỉ, Đào Hùng và vợ chồng tác giả.
Bắt đầu vẽ biếm họa bút sắt mực đen từ thời ấy, anh tiếp tục trong những năm 1973-1974 nằm tù ở khám Chí Hòa vì tội chống lệnh nhập ngũ và tổ chức nổi loạn, bất phục tùng chính quyền. Anh để lại một tập tranh vẽ dữ dội trên các mảnh giấy tố cáo chế độ lao tù, những cánh cửa ngục tù, những bàn tay bị xiềng xích cùng nhau đoàn kết hay những bàn tay bẻ gãy xiềng xích, cùng nhân dân kêu đòi cơm áo, tự do, hòa bình: Ta phải thấy mặt trời, Một tuổi thơ chưa kịp lớn, Các thế hệ đi đầy, Bầy quạ chiến tranh, Người nữ tù. Anh dùng chữ Biểu tượng xã hội (Expressionisme socialiste) để tạm định nghĩa khuynh hướng sáng tác thời phong trào đấu tranh. Trong phong trào ấy, Trịnh Công Sơn và Bửu Chỉ luôn cùng nhau sát cánh.
Nếu nhạc sĩ họ Trịnh nổi danh bên phần nhạc phản chiến thầm kín, thì Bửu Chỉ là người tiêu biểu cho nền hội họa bất khuất sôi nổi. "Trong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi" (Trịnh Công Sơn).
Ra tù sau ngày 30/4/1975, anh vẽ nhiều tranh sơn dầu, đặc biệt trên bao bố thay vì giấy hay lụa. Hiện chúng tôi còn giữ một bức được anh tặng, chân dung một cô gái dâng hoa. Bạn của Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Thái Ngọc San,… Bửu Chỉ chủ trương nghệ thuật trong tự do, nghệ sĩ phải chính mình đến với cuộc đời, trung thực, dũng cảm. Anh hòa nhập vào mạch sống chung của dân tộc, luôn sáng tạo cho quê hương, một cội nguồn mãnh liệt, luôn tìm những hình thức mới để hoàn hảo tác phẩm. ”Bây giờ là những mối ám ảnh triền miên về không gian, thời gian, về sự sống và cái chết, về hạnh phúc và nỗi khổ đau của con người, của nhân loại trên trái đất.”(Thái Ngọc San). Bao nhiêu năng lực thời xưa anh dành bây giờ cho các lớp sơn dày mỏng, các màu sắc đậm lạt, các tia sáng nổi bật trong bóng tối, anh muốn tìm lại chính mình. Anh tham dự nhiều cuộc triển lãm cá nhân hay tập thể với Hoàng Đăng Nhuận, Đinh Cường, Trịnh Công Sơn tại Huế, TP Hồ Chí Minh, Hồng Kông, Liên Xô, Paris. Lần lượt anh đảm nhận lãnh đạo Hội Văn Học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, rồi Bình Trị Thiên, Hội Mỹ Thuật Việt Nam. Anh là ủy viên Ban chấp hành Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam. Anh có tác phẩm trong Viện bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam, Singapore, trong nhiều bộ sưu tập tư nhân ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ. Sự nỗ lực sáng tạo nghệ thuật của anh được vinh danh trong Huy chương Vì Sự Nghiệp Mỹ thuật do Hội Mỹ Thuật Việt Nam trao tặng. Trong logo Tạp chí Sông Hương, hình tượng con chim Phụng hóa thân thành dòng sông Hương Giang, núi Ngự Bình được anh thực hiện, diễn tả tâm tình một người sống lên trên một mảnh đất trữ tình, thơ mộng, một nôi văn chương, mỹ thuật nhưng với một tinh thần bất khuất, một lòng yêu tự do vô bờ.
Năm 1989, Bửu Chỉ được mời qua triển lãm ở Paris vào lúc Hội Người yêu Huế tại Pháp đang hoạt động, liên lạc văn hóa chặt chẽ với nguồn gốc quê hương. Những bạn trong Hội lần lượt đưa anh đi thăm thành phố ánh sáng, đi xem các cuộc triển lãm, mời anh đi ăn tiệm hay về nhà ăn cơm. Gia đình chúng tôi cũng hân hạnh được tiếp anh một hôm chủ nhật trên đồi Hắc Ký Ni Sơn trong thung lũng Chevreuse, miền nam Paris. Trời hôm ấy nắng đẹp như để đón chào người khách quý. Ngắm cô con gái út của chúng tôi, hai mươi tuổi xuân xanh, tràn đầy sinh lực, anh đề nghị vẽ cho nó một bức chân dung. Anh Chỉ đã từng vẽ nhiều chân dung, tự họa cũng có. Một trong những bức đầu tiên nghe nói là dành cho cô Tường Vi, bà vợ tương lai của anh. Bên cạnh vô số những bức vẽ bạn bè, nhiều nhất là những bức vẽ ông bạn Trịnh Công Sơn nhắc nhở những bản nhạc Trăng thiên cổ, Tuổi đá buồn, Một cõi đi về, Chân dung vô thường, Tưởng niệm...
Mừng rỡ, chúng tôi nhận lời ngay, chỉ có cháu gái e lệ không muốn nhưng rút cuộc cũng chịu ngồi làm người mẫu. Khi chúng tôi bảo không có dụng cụ hội họa, anh bảo không can chi, giấy gì, viết gì cũng được, anh sẽ ứng biến. Tôi nhớ là trong tù anh đã vẽ nhiều với vật liệu tối thiểu. Thế là với bút viết vở giấy học trò, anh bắt đầu vẽ ngay trong lúc uống rượu khai vị. Có lúc anh nhúng bút bi vào trong đĩa rượu trắng để làm mực… Anh vẽ không phải một bức mà liên tục năm bức, hai trong thời gian khai vị, hai trong bữa ăn, bức cuối cùng sau bữa ăn. Thật ra, hôm ấy, anh chẳng ăn gì nhiều, chúng tôi bỏ nhiều thì giờ nói chuyện và uống rượu.
Bức đầu tiên, cũng như mấy bức sau, theo tôi không giống bao nhiêu người mẫu, nhưng cho thoát ra một vẻ trẻ trung của tuổi dậy thì. Họa sĩ chú trọng nhiều đến cặp mắt linh động nửa Âu nửa Á nổi bật giữa bức tranh. Trong bức thứ nhất, tóc dài không đen mượt như tóc các cô gái Huế nhưng cũng không vàng óng như tóc mẹ. Cũng dễ hiểu khi là sản phẩm của hai dòng máu Pháp Việt. Bức thứ nhì tương tự bức thứ nhất và, như ba bức sau, anh cho thêm màu vàng lên tóc. Hai bức này được thực hiện trên chiếc bàn thấp ở không gian khách. Qua hai bức sau, anh Chỉ đẩy dĩa và muỗng nĩa trên bàn ăn sang một bên để có chỗ đặt tờ giấy vẽ. Trong bức thứ ba nhìn nghiêng, tuy vẫn là một người, mẫu trong tranh có phần già dặn hơn, vẽ hồn nhiên của cô gái trẻ phần nào nhường chỗ cho một đôi mắt mơ mộng. Qua bức thứ tư, bộ mặt cô gái hoàn toàn khác, vẻ vui tươi không còn nữa. Chiều sâu đôi mắt và hình dáng hai môi tỏa ra một nỗi buồn thầm kín. Có thể lúc nầy tác dụng của mấy ly rượu đỏ Bordeaux tiếp sau mấy ly rượu khai vị Martini bắt đầu có ảnh hưởng lên cách vẽ. Tay không run nhưng tâm trí họa sĩ có thể đã được chuyển qua một không gian khác. Anh Chỉ như tuồng không còn nhớ mình đang ngồi với bạn bè bên phương trời Tây. Và vào cuối bữa ăn, thêm vào một vài ly rượu tiêu cơm Cognac, cô gái trong bức thứ năm không còn là cô thiếu nữ trẻ trung lúc ban đầu nữa mà là một thiếu phụ tóc đen, má hõm, mắt cúi nhìn xuống dưới, miệng hé mở, bộ mặt thầm lặng, nếu không đau khổ thì cũng là ở một trạng thái suy nghĩ sâu kín. Anh bạn Đào Hùng, có mặt hôm ấy, vui vẻ thả một câu: Nó vẽ con anh mà nghĩ đến một cô nào đó! Anh Chỉ không phản ứng, trầm ngâm như đang sống lại một giấc mơ…. Chúng tôi đều lặng thinh một hồi, tôn trọng sự định tâm của anh.
Không biết gì về ngành hội họa, tôi chỉ là một người ngồi xem vẽ tranh, thấy thích thú khi theo dõi biến dạng của một bức chân dung. Càng thú vị hơn khi họa sĩ tuy không đồng lứa, đồng chí, là một anh bạn đồng hương xem như là quen thuộc qua báo chí, tranh vẽ. Anh có bức vẽ ”không tên”, những bức tranh nầy có thể gọi ”không tuổi”. Chúng tôi đưa ra phổ biến không ngoài ước mong góp phần, dù rất nhỏ, vào bộ sưu tập tranh đã phong phú của nhà họa sĩ trứ danh đất Hương Bình ngày nay rải rác khắp bốn phương. Anh Bửu Chỉ qua đời năm 54 tuổi sau một cơn huyết áp cao tại nhà riêng ở Huế. ”Tôi vẫn sẽ sống như tôi đã sống”: đấy là những lời cuối cùng anh trả lời câu hỏi nếu có một đời sống khác thì anh sẽ chọn lựa như thế nào. Ta có thể hiểu anh đã tự mãn về cuộc sống của anh.