Luận về số 2
Trong hệ thống khoa học và ngôn ngữ của mỗi dân tộc, những con số luôn giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Nếu như ở địa hạt khoa học, con số giữ vai trò thúc đẩy cho toán học và các lĩnh vực thuộc khoa học tự nhiên phát triển, thì ở địa hạt xã hội và nhân văn, những con số mang trong mình nhiều biểu hiện phong phú và sống động về lịch sử - văn hóa của mỗi cộng đồng.
Nói về số, người ta nhấn mạnh hơn cả đến dãy số có một chữ số, được xem là các đơn vị mang tính điển mẫu cơ sở, nhằm cấu tạo nên tất cả những đơn vị còn lại. Trong tiếng Việt, dãy số cơ sở này được gọi tên là: Không, Một, Hai, Ba, Bốn, Năm, Sáu, Bảy, Tám, Chín. Đứng từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi cho rằng số Hai là đơn vị có nhiều điểm đặc biệt hơn cả.
1. Có thể nói ngay rằng, so với tất cả những đơn vị định danh chỉ số còn lại, số 2 trong tiếng Việt là đơn vị mang nhiều tên gọi nhất. Có tới 9 đơn vị ngôn ngữ có thể được sử dụng để biểu đạt về số 2, mỗi đơn vị lại mang theo nó những giá trị ngữ nghĩa và cách sử dụng đặc thù, cụ thể gồm có: Hai, Đôi, Nhị, Nhì, Lưỡng, Song, Thứ, Cặp, Đúp.
“Hai” có thể xem là đơn vị ngôn ngữ mang tính điển mẫu cao nhất và phổ biến nhất, thông dụng nhất khi được dùng để biểu thị số 2. Sắc thái của nó được xem là trung tính, có thể diễn đạt về ý niệm số 2 trong nhiều hoàn cảnh, bối cảnh hơn cả. Trong Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học), “Hai” được định nghĩa là “số tiếp theo số một trong dãy số tự nhiên”. Trong thi ca, “Hai” được sử dụng trong những ngữ cảnh mang tính chất miêu tả thông thường, ít nhiều mang tính chất số học: Tuổi còn thơ ngày hai buổi đến trường/Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ/Ai bảo chăn trâu là khổ/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao (Quê hương – Giang Nam), Tôi đi bằng nhịp điệu/Một hai ba bốn năm/Em đi bằng nhịp điệu/Sáu bảy tám chín mười (Tình khúc Ơ bai – Trịnh Công Sơn). Trong diễn đạt về tình yêu đôi lứa, “Hai” được sử dụng trong những hoàn cảnh khi hai người vẫn còn có những khoảng cách, chia xa, chưa thực sự là của nhau, chưa thực sự hạnh phúc và viên mãn. Biểu đạt rất tinh tế này sẽ hoàn toàn khác nếu ta so sánh với sắc thái của “Đôi”: Hai đứa như hai vì sao xa. Trôi trên sóng bồng bềnh bồng bềnh. Bao tháng năm đã từng trôi qua. Mà sao mãi lênh đênh lênh đênh (Lênh đênh – Nhạc và lời: Hồng Đăng), Đời hai ta, đời hai ta, gắn bó với hai sông. Anh Vàm Cỏ Tây em Vàm Cỏ Đông. Mỗi tối chiều lên, chao sóng nước. Bìm bịp kêu xao xác cả hai dòng (Thì thầm với dòng sông, thơ: Hoài Vũ, nhạc: Thuận Yến)
Cùng mang gốc thuần Việt nhưng “Đôi” khác hẳn với “Hai”, thường được dùng để chỉ những “tập hợp gồm hai vật cùng loại, hai cá thể tương ứng với nhau và làm thành một đơn vị về mặt chức năng, công dụng hoặc sinh hoạt” (Từ điển tiếng Việt – Viện Ngôn ngữ học). Trong đời sống thường ngày của người Việt, ta vẫn thường quen thuộc với những cách nói như: đôi đũa, đôi giày, đôi găng tay. Khi dùng “đôi” để biểu thị cho những mối quan hệ xã hội, sắc thái thân thiết, tình cảm được nổi hẳn lên, có thể thấy điều này qua các diễn đạt như: đôi bạn, đẹp đôi, đôi lứa. Trong thi ca, khi diễn đạt về tình yêu nam nữ, “đôi” rõ ràng thể hiện một sự khăng khít, gắn bó bền chặt hơn nhiều so với “hai”: Vợ chồng như đũa có đôi/Hai con người ấy chẳng rời nhau ra (Tỳ Bà truyện – Nguyễn Bính), Đôi ta như thể con ong/Con quấn con quýt con trong con ngoài (Ca dao).
“Đôi” đi vào tên gọi của những tác phẩm văn học nổi tiếng như “Đôi lứa xứng đôi” của Nam Cao – chính là tên gọi tiền thân của truyện ngắn nổi tiếng Chí Phèo. Nhà văn Nhất Linh cũng từng có một tiểu thuyết lãng mạn trước 1945 được nhiều người biết đến với tựa đề “Đôi bạn”. Trong tình yêu, kể cả khi hai người ở cách xa nhau, thì việc dùng “đôi” luôn có một ngụ ý gửi gắm, những khoảng cách về mặt địa lý chỉ là cái giới hạn nhất thời, chắc chắn sẽ tới ngày hai người trở lại bên nhau. Thi sĩ vì thế dùng “đôi” chứ không dùng “hai”: Nỗi cách xa trong tình yêu đôi ta/Như cơn gió tràn qua ánh lửa/Gió thổi bùng ngọn lửa to cháy đỏ/Hoặc dập vùi tia lửa nhỏ mong manh (Thơ nước ngoài), Anh không ngủ hẳn vì em đang nhớ/Một trời sao rực cháy giữa đôi ta (Chế Lan Viên).
Hai đơn vị thuần Việt còn lại biểu thị số 2 là Thứ và Cặp. Thứ được dùng để biểu thị số 2 chủ yếu trong bối cảnh gia đình, khi nói về vợ và con. Vợ thứ được xem là người vợ lấy lần hai, trong mối tương quan với người vợ cả (lấy lần đầu). Nghĩa là cả hai người vợ vẫn tồn tại đồng thời trong mối quan hệ với người chồng. Tương tự như vậy, con thứ là khái niệm dùng để chỉ người con sinh ra thứ hai, sau con trưởng. Tiếng Việt vì thế còn có các từ “trưởng nam” và “thứ nam”. Trong học tập, thi cử và xếp hạng của người xưa, tiếng Việt cũng có cách diễn đạt “đỗ hạng thứ”.
“Cặp” so với “Đôi” có nhiều biểu hiện tương đồng về ngữ nghĩa, cũng dùng để chỉ “tập hợp gồm hai cá thể, hai vật cùng loại đi đôi với nhau thành như một thể thống nhất” (Từ điển tiếng Việt – Viện Ngôn ngữ học). Ta vẫn thường nghe người ta nói: cặp môi, cặp mắt, cặp vợ chồng. Thậm chí theo quan điểm của chúng tôi, “cặp” là danh từ chỉ đồ vật với ý nghĩa “hai thanh cứng để kẹp đồ vật và giữ chặt lại” cũng xuất phát từ “cặp” với ý nghĩa chỉ số 2. Có một biểu hiện khác biệt rất tinh tế của “cặp” so với “đôi”. Đó là tính khăng khít, bền chặt và bất khả ly của “đôi” rõ ràng cao hơn so với “cặp”. Vì thế, khi nghe người ta nói: “chúng nó đang cặp với nhau” thì cũng có một ngụ ý rằng, hai người đó chỉ mới có quan hệ tình cảm với nhau thôi và chưa hứa hẹn điều gì lâu dài cả, có lẽ có thể chia tay bất cứ lúc nào. Nhưng nếu vẫn là hai cá thể ấy nhưng được diễn đạt bởi câu: “chúng nó là một đôi” thì hình như mức độ bền chặt cao hơn, mang đến cho người nghe niềm tin sâu sắc hơn về tính nghiêm túc, có ý thức trách nhiệm của hai cá thể này. Ngoài ra, đối với một số sự vật hiện tượng khác cũng có cách sử dụng song song cả hai biến thể “đôi” và “cặp”, chẳng hạn “đôi môi” và “cặp môi”. Theo cảm nhận của chúng tôi, “đôi môi” dường như gợi cảm hơn và tạo ra tính hình tượng cao hơn, găm vào trí nhớ người đọc lâu bền hơn. Còn “cặp môi” giống như một lát cắt, một khoảnh khắc, có lẽ sẽ mau chóng trôi nhanh và dễ quên hơn. Ta hãy thử so sánh hai cách diễn đạt này trong thi ca của những tác giả nổi tiếng: Nhưng dù chết em ơi/Yêu em anh không thể/Hôn em bằng đôi môi/Của một người nô lệ (Phùng Quán), Ngủ đi em đôi môi lửa cháy (Trịnh Công Sơn), Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt/Cho ta nghe đôi hàm ngọc của răng/Trong say sưa anh khẽ bảo em rằng/Gần thêm nữa thế vẫn còn xa lắm (Xuân Diệu)
2. Chuyển qua những đơn vị ngôn ngữ biểu thị số 2 mang nguồn gốc vay mượn, ta có bốn đơn vị vay mượn từ tiếng Hán là nhị, nhì, lưỡng, song. “Nhị” là đơn vị biểu thị số thứ tự một cách khách quan, tương đương về giá trị ngữ nghĩa cơ bản nếu ta so với “hai”. “Nhị” tham gia cấu tạo một số đơn vị từ ngữ trong tiếng Việt như nhị diện, nhị hỉ, nhị nguyên, nhị phân. Nhị cũng được dùng để chỉ tên một loại nhạc cụ dân tộc gồm hai dây. Nhị cũng đi vào thành ngữ qua đơn vị “độc nhất vô nhị”. “Nhì” được xem là một biến âm của “nhị”, chủ yếu được dùng trong cách diễn đạt với ý nghĩa xếp hạng, chẳng hạn “về nhì”, “thứ nhì”. So với Nhị, Nhì đi vào nhiều thành ngữ của người Việt hơn: Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống, Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân. Nhất má nhì mông tam lông tứ diện (xem tướng lợn).
Lưỡng và Song cũng đều biểu thị ý niệm số 2, cùng đi vào tham gia cấu tạo một loạt những từ ngữ quen thuộc được sử dụng trong tiếng Việt. Về “lưỡng”, ta có các đơn vị thông dụng như: lưỡng chiết, lưỡng cư, lưỡng lự, lưỡng phân, lưỡng quyền (hai gò má), lưỡng thê. Về “song”, ta có các đơn vị thông dụng như: song hỉ, song kiếm, song hành, song ngữ, song phương, song sinh, song song, song tấu, song thai, song thân, song thất lục bát, song tiết, song toàn.
Đơn vị cuối cùng biểu thị số 2 có nguồn gốc từ tiếng Anh, chữ “đúp” trong tiếng Việt hiện nay vốn bắt nguồn từ chữ “double”. Chữ “đúp” hiện nay chỉ được sử dụng trong một vài tổ hợp mà có lẽ tiêu biểu nhất là “cú đúp”, thường dùng để chỉ việc cầu thủ ghi được hai bàn thắng trong một trận bóng, hoặc một vận động viên hai lần lập công trong một trận đấu thể thao nói chung. Ngoài ra, người Việt cũng sử dụng “đúp” trong trường hợp học sinh phải học lại hai lần một cấp độ nào đó, chẳng hạn, “nó bị đúp lớp hai”, “học đúp”.
3. Trở lại với định danh điển mẫu và thông dụng nhất là Hai. Ngoài giá trị số học như những đơn vị khác, Hai còn tham gia vào những đơn vị ngôn ngữ biểu hiện những ý nghĩa tâm lý - văn hóa. Trong tiếng Việt, ta thấy có sự hoạt động của một loạt đơn vị như: hai mang, hai lòng, hai mặt mang sắc thái tiêu cực, nhằm phê phán sự không chung thủy, tráo trở, lật lọng, phản bội của con người. Cũng diện đạt về mặt biểu hiện tâm lý nhưng có sắc thái trung tính hơn là “nước đôi”. Ta vẫn thường nghe nhiều nhà nghiên cứu văn hóa nói về “tâm lý nước đôi” trong ứng xử của người Việt, chẳng hạn vừa trong lý vừa trọng tình, vừa thích tiền vừa chê tiền…
Tìm hiểu về số 2 và những biểu hiện của nó trong ngôn ngữ, ta thấy được sự phong phú, sống động, linh hoạt và giàu sức biểu cảm, sáng tạo của người Việt.