Bảo tồn các loài sinh vật biển
Với hơn 3.260 km bờ biển, Việt Nam là quốc gia có sự đa dạng sinh vật biển. Các nhà khoa học đã xác định được danh mục gần 12.000 loài sinh vật biển Việt Nam, bao gồm cả động và thực vật.
Khám phá hệ sinh học ở vùng biển cạn.
Các nghiên cứu đã chứng minh nguồn lợi hải sản Việt Nam phong phú đa dạng bao gồm khoảng trên 2.000 loài cá, gần 6.000 loài động vật đáy, 653 loài tảo, 5 loài rùa, 12 loài rắn biển...
Trong đó, có một số nhóm sinh vật biển có giá trị kinh tế quan trọng như cá, tôm, mực… đã được xác định khu vực phân bố, trữ lượng và khả năng khai thác. Trữ lượng cá đáy và cá nổi khoảng 3-3,5 triệu tấn với khả năng khai thác khoảng 1,5-1,7 triệu tấn.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đa dạng hóa về sản phẩm biển đang là hướng đi rất tích cực, nhằm giảm bớt áp lực lên các đối tượng khai thác truyền thống. Ngoài ra, việc thường xuyên nghiên cứu, biên tập Sách đỏ Việt Nam cũng góp phần đáng kể vào việc bảo vệ nguồn lợi sinh vật biển.
Đặc biệt, nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học biển bảo vệ tài nguyên biển đã đạt được những kết quả khả quan. Một số biện pháp sử dụng các loài sinh vật có ích để bảo vệ môi trường cho từng khu vực hẹp đã bắt đầu có hiệu lực.
Các nhà nghiên cứu cũng thường xuyên chú ý đến việc đánh giá mức suy giảm nguồn lợi ven bờ và các nguy cơ đe dọa đến tài nguyên sinh vật, hủy hoại các hệ sinh thái biển Việt Nam…
Trên cơ sở điều tra, nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra những đề xuất nhằm bảo tồn đa dạng nguồn tài nguyên biển. Năm 2010 Chính phủ đã chính thức phê duyệt 16 khu bảo tồn biển là: Đảo Trần, đảo Cô Tô, đảo Cát Bà, đảo Bạch Long Vỹ, hòn Mê, đảo Cồn Cỏ, Hải Vân - Sơn Trà, Cù lao Chàm, đảo Lý Sơn, Nam Yết, vịnh Nha Trang, núi Chúa, hòn Cau, đảo Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc. Đây là minh chứng cho sự kết hợp giữa khoa học và quản lý đã mang lại những lợi ích thiết thực.Theo PGS.TS Đỗ Công Thung - Viện Tài nguyên Môi trường biển, các kết quả nghiên cứu hệ sinh thái, tài nguyên sinh vật biển trong thời gian qua đã và đang khẳng định ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Đó là cơ sở khoa học phục vụ cho việc hoạch định khai thác, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch sinh thái, bảo tồn biển và an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền lãnh hải Việt Nam.
Với mục tiêu phấn đấu trong 5 năm tới có thể vươn ra nghiên cứu đại dương, 10 năm tới đạt trình độ nghiên cứu sinh học biển ngang tầm khu vực và có những chuyên ngành ngang tầm các nước tiên tiến, các nhà khoa học Việt Nam hiện đang nỗ lực tăng cường đội ngũ cán bộ, mở rộng hợp tác quốc tế, đầu tư trang thiết bị, tập trung hướng đến nghiên cứu toàn diện các vùng biển lớn.
Trong đó, công tác điều tra, nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển phải đi trước một bước. Quan trọng nhất là đánh giá đầy đủ, chính xác tổng trữ lượng nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam, chú trọng đến nguồn lợi sinh vật vùng biển xa bờ như Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ, vịnh Bắc Bộ… và chú trọng bổ sung nhằm đa dạng hóa nguồn tài nguyên biển như tài nguyên sinh vật có giá trị dược liệu, tài nguyên sinh vật ở các vùng biển sâu, tài nguyên sinh vật có giá trị kinh tế cao như thân mềm, giáp xác, da gai…
Đó là cơ sở để các nhà khoa học nghiên cứu xây dựng bản đồ ngư trường đánh bắt thủy sản theo mùa và quy hoạch, quản lý tài nguyên biển theo vùng lãnh thổ, phục vụ hoạch định chiến lược khai thác tài nguyên biển.
Đồng thời, việc đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học vào bảo vệ tài nguyên và môi trường biển như xây dựng các khu bảo tồn biển, các mô hình phục hồi các hệ sinh thái, mô hình bảo vệ nguồn lợi… cũng là một việc làm quan trọng cần quan tâm thỏa đáng.
Phối hợp quản lý nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký quyết định ban hành Quy chế phối hợp cấp phép, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam. Quy chế này quy định về nguyên tắc, nội dung, phương thức và trách nhiệm phối hợp giữa các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Quốc phòng, Ngoại giao, Công an, Khoa học và Công nghệ (các Bộ) trong việc cấp phép, xem xét đề nghị thay đổi nội dung đã được cấp phép nhưng không thuộc trường hợp sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép; kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam. Trong đó, nguyên tắc phối hợp phải bảo đảm hiệu quả, cụ thể trách nhiệm phối hợp của từng Bộ trong việc cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam; bảo đảm bí mật quốc gia, bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật; bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn trên biển, hải đảo. Nội dung phối hợp gồm: Lấy ý kiến hồ sơ đề nghị cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam; xem xét việc thay đổi nội dung đã được cấp phép nhưng không thuộc trường hợp sửa đổi, bổ sung, gia hạn quyết định cấp phép nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam; kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm trong quá trình nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam. X. Hồng |