Cánh đồng ơi cánh đồng… n Tản văn của Nhuỵ Nguyên

Tản văn của Nhuỵ Nguyên 26/05/2019 09:00

Tôi không thấy khác nhiều những cuộn khói vươn lên giữa cánh đồng quê thuở nhỏ so với bây giờ, niềm rung cảm vẫn nguyên xưa, mà dường như nỗi niềm khác lạ len vào đến day dứt. Hồi xưa không mấy ai đốt rơm toóc. Còn giờ thời đại của bếp ga, của máy móc khiến trâu bò cũng đang vắng dần nên rơm sau khi được thải ra, đợi khô là họ đốt.

Cánh đồng ơi cánh đồng… n Tản văn của Nhuỵ Nguyên

Nhìn mà tiếc ngẩn ngơ. Vẫn một khung cảnh nên thơ mộng mị, vẫn làn khói bốc từ lửa đỏ vàng ngộm rồi chuyển tím bốc lên hòa cùng mây gió, sao thấy buồn cho đất đai dần dần khô cằn nghèo kiệt bởi sự nung nóng của lửa.

Tôi lưu dấu những sắc màu cánh đồng. Bắt đầu là màu xanh của lúa dậy thì, pha chút vàng khi bông chín, rồi đến lá và cây cũng chuyển vàng. Rồi cánh đồng trơ gốc rạ, vàng chái một màu rơm toóc. Gần thời điểm cho vụ mới, một mồi lửa và ngọn khói bốc lên cuồn cuộn. Màu trắng. Đàn trâu kiếm ăn khó nhọc bỗng ngước lên khịt mũi và cũng ngơ ngác đến dại khờ. Những sắc màu chuyển dần như chu trình của một đời người. Hoàn hảo trong nỗi buồn của mất mát, của sự vương vấn giữa bi ai và cái đẹp. Không dưng thương con cúi trên tay thuở nào, thuở nào mình không còn nhớ mà vẫn như in trong tâm trí đến thế. Cái hình ảnh như thước phim quay chậm từ lúc tôi rút nắm rơm xoắn lại làm con cúi, rồi qua hàng xóm xin lửa, đến tận bên bếp gắp cục than đỏ lựng bỏ vô giữa lòng con cúi, vừa thổi vừa bước về đến nhà thì bén lửa.

Có lần về quê, đang dọc đê bỗng thấy cuộn khói ngút trời, tôi thả xe, chân trần chạy băng xuống ruộng để giơ máy ảnh cho kịp khoảnh khắc. Mà chậm. Tôi đứng ngẩn ra nhìn đàn trâu từ xa đi qua cuộn khói như từ huyền thoại. Đẹp ngẩn. Nó lưu lại trong ký ức chứ không phải được lưu trong những tấm ảnh. Thương sao đàn trâu ban đầu ngần ngại bỏ đi, sau đứng sắp hàng ngơ ngác nhìn tôi như đôi mắt hồn nhiên của núi rừng nguyên thủy. Chúng cứ đứng nhìn bóng dáng của tôi khi đã bước lên đường và ngồi lên xe, tôi đưa tay vẫn và rú ga, vẫn thấy đàn trâu chưa hề cúi xuống gặm cỏ. Thương con trâu già hồi xưa nhà dắt ra chợ, nó cứ trì lui và suốt dọc đường không ngớt nhìn về phía đồng xa, thật xa.

Nhớ lạ bóng dáng của mạ nhen rơm dưới tàn bông giấy. Mạ dùng cái que dài hơn mét để lùa rơm vô bếp nấu nồi cám lợn, lúc sôi thì tranh thủ quét hoa bông giấy rụng dày quanh tán giếng. Đẹp mê hồn. Tôi cứ lủi thủi đi theo chụp bóng. Lại thấy mạ bỏ chổi đun bếp. Khói lên nghi ngút, cay cả mắt. Tôi nhớ mùi khói khi chị hay mẹ nấu cơm trưa dưới nắng nóng sau nhà. Tôi nhớ mỗi bận trục lúa xong phơi rơm, lũ trẻ thường nhào lộn, lăn lê không sợ bị thương trầy xước nữa. Ông hàng xóm có hẳn một cái nhà rơm, mùa đông xin ngủ ở đó ấm sực; ban ngày kiếm được quả ổi quả dứa, mấy đứa rủ nhau chui lên ăn hết ý. Nhà tôi tấp rơm thành đống, trên cùng của ngọn tre đặt lòng úp cái niêu đất. Bác hàng xóm tấp đống rơm chặt cứng, rút hết rơm rồi vẫn còn trơ lại núm phía trên không rớt. Cha tôi mùa nào cũng đánh tranh toóc, còn bày cho tôi. Ban đầu phải chọn toóc cứng, chuốt sạch rồi bó trong tay nhét vào nuộc mà dém, dậm chân lên giữ rồi lựa tiếp nắm khác. Tranh chủ yếu dùng che chuồng heo chuồng gà và lợp nhà bếp. Có gia đình chỉ hai ông bà già làm nông, nên không lấy toóc mà đốt đi đỡ công. Những nhà khác không cắt toóc liền có người đến xin, ruộng ướt gánh về luôn, ruộng khô thì rải ra đợi khô. Thấy khói lên là lúc đứng trên đồng nhìn vào thôn xóm, còn trên đồng, có chăng là lũ con nít đốt rơm nướng khoai hay thứ gì đó. Cái lũ chăn bò nghịch như quỷ sứ, lắm khi ngủ quên luôn bên những ngôi mộ đến chập choạng mà chẳng biết trâu bò đã lạc qua rào hay phá ruộng nương ai đó. Những cuộn khói được lưu giữ sâu trong tâm thức tôi, để bây giờ hễ thấy khói là bỏ cả ly cà phê mới gọi, chạy xe về hướng đó, òa đến, như thấy những giọt mồ hôi của cha mẹ sót lại trên cánh đồng đang vơi dần trong nắng.

Cánh đồng ơi cánh đồng… Tôi đã từng thốt lên khi ngồi xòa xuống một đám ruộng mà phía sau lửa và khói đang quyện vào nhau lan dần ra như giận hờn tức tưởi. Nhớ quá một thời kham khó. Nhớ những gánh lúa về đến nhà đặt xuống như trút được ưu tư cả cuộc đời. Nặng đến đôi vai trầy trợt. Bưng đọi cơm vẫn còn run vì đói, và cái nặng của gánh lúa nhọc nhằn ám cả vào giấc mộng mị. Nhớ sao cái cảnh mình nắm dây diều chạy băng băng qua từng đám ruộng như chẳng còn bờ kẹ. Dẫu đó là ký ức hiện lại như mơ, vì tất cả đã trôi đi, như huyền thoại được diễn khi ai bước qua đám khói đốt đồng cháy cả hồn quê và biết đâu cháy mãi đến muôn sau…

Tản văn của Nhuỵ Nguyên