Nhà văn Tô Hoài nói về mình và các đồng nghiệp...
Trong số những tên tuổi nổi bật của làng văn nước nhà những thập niên cuối thế kỷ XX, Tô Hoài (1920-2014) là một trường hợp đặc biệt. Đặc biệt vì ông rất thọ, can dự vào nhiều hoạt động trong làng văn và liên quan tới làng văn. Và ông để lại trong những đồng nghiệp đồng thời những ấn tượng phong phú và đa dạng, đôi khi trái ngược nhau. Có lẽ vì thế nên nghe chính ông nói về bản thân mình và các đồng nghiệp cũng là một việc thú vị để ta hiểu hơn về một thế hệ tiền bối trong làng văn đất nước.
Các văn nghệ sĩ dự Hội nghị Chấp hành mở rộng Hội Văn nghệ Việt Nam tại Việt Bắc tháng 3/1951. Từ phải sang, hàng trước: Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, Nguyễn Đình Thi. Hàng sau: Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Học Phi, Nguyễn Đỗ Cung. (Ảnh: Trần Văn Lưu).
Nhà văn Tô Hoài: Nhiều khi là những chuyện lặt vặt, nhưng thật ra là rất thích, ví dụ như chuyện Nam Cao trước khi về vùng tề. Cái chuyện vùng tề mà Nam Cao bị mất thì là cái chuyện như thế, nhưng bên trong nó có những cái nông nỗi như thế này: đúng là như Kim Lân đã viết cái chuyện về Nam Cao, ông viết về cái làng ấy, song viết xoàng quá thì chính Nam Cao cũng xé đi, đấy là ông ấy bận tâm về cái chuyện đấy. Thật tình mà nói lúc Nam Cao đi cùng Nguyễn Huy Tưởng về khu 4 chứ không phải đi vùng tề, nhưng mà trước lúc ấy thì Nam Cao được báo Cứu quốc gọi lên Việt Bắc cùng làm với tôi thì công việc cũng yếu yếu, rồi theo vợ con về vùng tề, nói chung là…
Không ở chiến khu nữa vì khổ quá?
- Không, ở khu 3. Nam Cao không ở Điện Biên Phủ được nữa nên phải về vùng tề. Nam Cao đi cùng anh Tưởng qua khu 3, về khu 4. Nghe báo cáo hẳn hoi là khu 3, cái vùng cơ sở an toàn có đại đoàn Quân Tiên phong của ông Văn Tiến Dũng, đại đoàn mạnh lắm. Qua Đại Hoàng thì ông ấy quyết định rẽ vào. Từ cái vùng Ninh Bình đấy qua Đại Hoàng thì chỉ có một đêm thôi. Không may là đấy là một cánh đồng chiêm, đến chập tối thì du kích gác rút đi, Tây thì chỉ có 1 bốt đi tuần, nó đến thì nghe nói là mình đi 7 thuyền, Nam Cao lại đi cái thuyền đầu. Tôi đã đi với Nam Cao một lần ở đường số 4 trong chiến dịch Biên giới năm 50, anh này thì hết sức là cẩn thận, và “nhát” nữa, nhưng mà tất cả những lúc cần thiết thì ông ấy đi đầu. Có những lúc đi theo đường dây mà liên lạc dẫn qua thì không ai muốn đi đầu, đi đầu thì nhỡ cái… nhưng lão cứ thế lão lao lù lù dẫn đầu (cười). Việc gì mà phải đi thuyền đầu, có 7 thuyền thì mình là nhà văn mình tội gì! Thì có 3 thuyền bị bắt, 4 thuyền chạy được. Khi đi thì nếu ông ấy có lấy giấy trong người thì là cán bộ y tế hay bình dân học vụ, cán bộ ấy thì địch thường cũng không sát hại vì có người biết tiếng Pháp. Đi thuyền đầu thì đêm hôm ấy tất cả 8-9 người ở cái thuyền đầu đấy thì ô hợp, có những người định trốn thì nó đem bắn cả cho tiện. Nếu không có thì cái bốt ấy theo nguyên tắc là nó giao cho đồn địa phương chứ không xử lý gì, nó chỉ đi qua thôi, thế là chết. Cái chuyện nó rất là tình cờ. Tất cả những chuyện ấy tôi biết kỹ là do anh Nguyễn Đức kể cho tôi nghe. Nguyễn Đức là một tay tội lắm ông ạ, cũng hội chủ nghĩa Mác, Nguyễn Đức với Trần Phương, sau này là Phó Thủ tướng ấy. Sau này có chuyện nên kết cục tội lắm...
Hồi còn bé đi học, tôi đã nghe phân tích truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao. Các thầy giáo, kể cả các thầy là học trò của ông Vũ Bằng ngày xưa, họ đều hết sức phê phán thái độ của nhân vật Hoàng trong truyện, tức là nhân vật được coi là hiện thân của nhà văn Vũ Bằng. Và sau này thì chúng ta mới biết, theo một số nhà nghiên cứu, hoá ra Vũ Bằng là điệp viên của quân đội (?) Một khi biết cái tin ấy thì thái độ người đọc của chúng ta đối với nhân vật Hoàng và Vũ Bằng là khác hẳn. Như vậy, khi diễn giải hoặc khi nhà văn viết, đôi khi là không có cái ý như thế, và cái ý được truyền ra lại do một số người diễn giải sai, hay thực sự là Nam Cao hồi ấy đã nhìn Vũ Bằng như thế, hay thực sự Vũ Bằng là điệp viên nhưng vẫn là người xấu chăng? Ông là người chứng kiến, ông nói như thế nào về Vũ Bằng, về mối quan hệ của Nam Cao và Vũ Bằng, về quan niệm của Nam Cao thể hiện trong truyện ngắn “Đôi mắt”?
- Trước hết thì tôi thấy tất cả những suy diễn chuyện Vũ Bằng sau này thành Vũ Bằng phản động thì nó là cái chuyện của cả cái nền văn học của mình lúc ấy là có khuynh hướng phân tách những cái tiêu cực và tích cực một cách rõ ràng. Chứ còn những việc xảy ra như Nam Cao viết rằng Vũ Bằng nói về nông dân như thế thì nó rất thường lúc bấy giờ đối với một người tiểu tư sản ở thành phố đi ra ngoài nói về nông dân ở thôn quê trong kháng chiến chống Pháp... Ông Vũ Bằng mà phân tích ra thì là như thế này: Với sự hiểu biết sau cùng của mình , ông ấy có thể là cơ sở của tình báo. Bảo ông ấy là tình báo là không đúng. Là cơ sở của tình báo thì ông ấy làm gì, không làm gì, ông Nam Cao không thể biết. Thứ hai nữa là con người của Vũ Bằng cực kỳ phức tạp. Viết “đểu”, chơi bời cũng “đểu” lắm (cười). Cực kỳ phức tạp. Không chơi với ai. Trong cái thời trước cách mạng ấy, tôi với Nam Cao là hai người chịu ảnh hưởng của Vũ Bằng rất nhiều, ảnh hưởng về phong cách ấy, đặc biệt trong cái “Mười hai thương nhớ” của Vũ Bằng. Tôi rất quý! Nhưng mà ông ấy cũng là người chơi rất ghê! Phải nói rằng đời ông ấy cứ chuyên viết văn thì chắc là khá hơn, nhưng ông ấy làm báo nhiều quá, ông ấy làm giàu nữa.
Có khát vọng làm giàu?
- Ông ấy làm giàu thật. Ông ấy là con một nhà nho, có hàng quán làm ăn kiểu như tư sản ở Hàng Gai. Ông ấy học trường Albert Sarraut cùng thời với cụ Phạm Văn Đồng… Sau rồi, ngay cái lúc còn thanh niên, ông ấy đã lấy bà Quỳ lớn tuổi hơn ông ấy. Lúc chúng tôi lên chơi, bà ấy còn xoa phấn lên tay…
Bà ấy hơn ông Vũ Bằng bao nhiêu tuổi?
- Chắc là hơn nhiều lắm. Đại khái là bà ấy chơi họ với mẹ của ông Bằng, rồi ông ấy lấy bà đó.
Theo ông thì ông ấy lấy vì tình yêu hay vì cái gì khác?
- Chắc là vì tình yêu thôi… Tình yêu thì chắc là đúng, nhưng chắc không đúng ở cái chỗ người như thế. Khi ông ấy vào Nam ấy, cái bà vợ mà mới mất độ trăm ngày nay, bà ấy chính là “oshin” rồi ông ấy lấy, lũ con bây giờ nheo nhóc… Vũ Bằng là người như thế, cho nên chính ông luôn luôn nói rằng “Mười hai thương nhớ” lúc nào quỳ thì quỳ... nhưng mà nó thế!
Tâm lý đó cũng dễ hiểu thôi, nó là những cõi khác nhau.
- Cho nên, đối với ông Vũ Bằng thì ngày ấy chúng tôi chỉ biết như thế thôi. Mà Nam Cao sau này viết “Đôi mắt” thì chính vì cái chuyện ấy, Nam Cao kể cho tôi rất kỹ về cái lần đến chơi nhà Vũ Bằng. Có một cái chi tiết mà Nam Cao không dám viết là Vũ Bằng chỉ phục có 2 người trong Cách mạng, đấy là Cụ Hồ và ông Nguyễn Khánh Toàn. Cái đêm Vũ Bằng và vợ đọc Tam Quốc cho Nam Cao nghe thì Vũ Bằng thích nhân vật Tào Tháo nhất, thích lắm… (cười). Chính Nam Cao lúc đầu định đặt tên cái truyện ấy là “Tiên sư thằng Tào Tháo” nhưng rồi lại thay đổi (cười). Vì cậu ấy sợ liên tưởng quá... (cười).
Vấn đề của nghệ thuật là phải bước qua nỗi sợ để tiến tới mọi giới hạn. Thế hệ hậu sinh như chúng tôi vẫn ngạc nhiên rằng tại sao sau này những nhà văn như ông và nhiều đồng nghiệp lại biết, lại trở nên biết sợ nhiều điều, đấy là vì lý tưởng hay có một phương thức huyền diệu nào chăng?
- Vì hoàn cảnh sống đã thay đổi…
Và các nhà văn với trí thông minh thiên bẩm hiểu rất nhanh điều đó và thích ứng rất nhanh?
- Thích ứng rất nhanh và cũng “ba lăng nhăng” rất nhanh. Có người thay đổi vì lý tưởng, vì thực sự thiết tha. Nhưng có những người thay đổi để có tiếng nói, để mà xoá cái của mình cũ…
Nhà văn Tô Hoài.
Có ý kiến như thế này và có thể là không đúng: nhà văn Tô Hoài rất khôn ngoan trong cuộc đời mình, cuộc đời như cuộc chơi của ông và ông biết cần đi nước nào để bao giờ đi ra khỏi nước mà vẫn khô, bao giờ cũng vừa an toàn mà vừa đạt được cái điều ông muốn trong bất cứ tình huống nào. Bởi vì ông đã biết rõ con đường của ông cần phải đi, việc ông cần phải làm?
- Có thể cũng đúng một phần, vì muốn làm gì thì làm tôi vẫn cứ muốn làm cái việc của tôi đã, ví dụ như là viết. Từ trước viết thế nào thì bây giờ tôi vẫn viết như thế. Cái hồi tôi bị phê bình, điển hình là quyển “Mười năm” hồi năm 57-58, trong đó tôi viết về phong trào ở Hà Tây, bản thân tôi cũng phát triển từ phong trào ấy, tôi viết về nhân vật ở cơ sở, trong đó có những phụ nữ rất hăng hái nhưng mà lại rất là dâm đãng. Người có tốt có xấu, nhưng người ta không công nhận. Ông Võ Hồng Cương đưa cả tỉnh uỷ ra 51 Trần Hưng Đạo phê bình mình, bảo nói như thế là nói xấu Hà Đông. Ngày xưa tôi viết thế bây giờ tôi vẫn viết thế. Thế nhưng mà bên cạnh công việc của mình thì có những cái người ta cứ nghĩ mình như thế và mình cũng làm như thế, tôi vẫn làm việc. Không những lao động đều đặn mà nói về công việc, công tác khác, mình làm Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn và Tổng Thư ký Hội Nhà văn năm 56. Xảy ra chuyện “Nhân văn Giai phẩm”, bản thân trong Hội Nhà văn lúc bấy giờ cũng có Nhà xuất bản Hội Nhà văn mà mình phụ trách còn định in sách của cả ông Vũ Bằng. Ông Nguyên Hồng, Ủy viên Đảng Đoàn phụ trách luôn luôn “sai lầm” (cười), đồng thời để cho mấy ông “nhân văn” ngóc dậy, thế là mình bị kiểm điểm hữu khuynh, phải tổ chức Đại hội Hội Nhà văn bất thường. Đâm ra mình chỉ làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn có 1 năm, năm sau ông Nguyễn Đình Thi về. Thế nhưng mà chỉ hơn 1 năm sau, mình nói cái chuyện rất dữ dội lúc bấy giờ, Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh nhất định là yêu cầu đuổi mình ra khỏi Ban Chấp hành Hội Nhà văn, đuổi ra khỏi Hội Nhà văn nữa. Chính ông Tố Hữu không đồng ý, ông ấy giữ mình lại làm Phó Thường vụ cho ông Thi trong vòng 30 năm (cười).
Tổng Thư ký ngắn nhất và Phó tổng Thư ký dài nhất. Nhiều người nói nhận xét là đối với nhà văn Tô Hoài, không có gì cao hơn, thánh thiện hơn là văn chương. Cái chuyện quan chức ông dính vào là vì ông muốn đùa với cuộc đời này. Ngay trong các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài để lại người ta cũng thấy điều đó. Bác có nghĩ rằng quyền chức là một trò đùa độc ác đối với những người cứ tưởng rằng đó là điều quan trọng nhất, ghê gớm nhất không?
- Thực ra mình cũng không nghĩ lắm, nhưng mà mình thực như thế. Mình chỉ muốn tất cả mọi việc mình làm, người ta cho mình làm để mình vẫn viết được, thế thôi! Chứ còn trong 30 năm tôi “phò tá” ông Thi thì cái tính là tôi biết. Tôi là người làm việc, cực kỳ làm việc, Bí thư Đảng uỷ triền miên, Trưởng ban khu phố, Chủ tịch phường... triền miên, 7 năm làm Chủ tịch phường (cười). Tất cả những cái ấy là mây bay gió thổi, tôi để cho hết.
Chủ tịch phường khi ấy chắc khác Chủ tịch phường bây giờ lắm nhỉ?
- Ký tợn lắm, nhưng không có phong bì như bây giờ (cười).
Cái tinh thần của Hội Nhà văn lúc ông làm Tổng Thư ký có khác gì, khác như thế nào với cái tinh thần, sứ mệnh của Hội Nhà văn thời nay không?
- Khác nhiều, khác nhiều chứ! Khác nhiều là ở cái chỗ bấy giờ trên nói dưới nghe ghê lắm. Tôi nói cái khác nhiều là bây giờ chả có gì nhưng hình như ai cũng sợ. Cái gì không làm được thì cũng không ai dám nói khác đi.
Trong thế hệ của ông, ông đã có điều kiện nhìn gần những nhà văn, nhà thơ hiện nay đã trở thành những tên tuổi, những cái mốc hết sức sáng chói của văn học nước ta, ông có thấy rằng đôi khi giữa những tác phẩm và nhân cách nhà văn có khoảng cách nào đó không? Nó không phải một thể thống nhất, và những lệch lạc ấy là do áp lực hay do điều kiện khách quan, và vì vậy thế hệ sau phải nên kính trọng hay nên thương cảm những nhà văn đi trước?
- Tôi thấy mỗi người mỗi khác, thí dụ như là anh Đồ Phồn khác, anh Thế Lữ khác, ông Nguyễn Tuân khác... Trong mỗi người một khác thì tôi chỉ chơi với một số người thôi.
Những người ông chơi là ai ạ?
- Trước kia là Nguyễn Tuân, sau là ông Nguyễn Văn Bổng, thế thôi.
Ông cũng không chơi với nhiều người. Nhưng ông nghĩ như thế nào về Xuân Diệu và Huy Cận?
- Trong “Cát bụi chân ai” tôi đã viết về thơ Xuân Diệu rồi (cười).
Đấy là trong sách, nhưng bây giờ ở đây, trong ngôi nhà của ông?
- Tôi thấy ông Xuân Diệu không có gì, khác thì chỉ khác ông Huy Cận thôi.
Nhưng mà phải thấy như thế này, Tô Hoài viết mỗi ngày một hay hơn, triết lý hơn, trong khi đó Huy Cận lại ngày một thơ ngây hơn, ông nghĩ điều này là như thế nào?
- Tôi cho rằng là ông ấy già... Cũng như đọc cái “Thượng đế cười” của Nguyễn Khải tôi thấy ông ấy cũng già rồi... Ví dụ, như ông Huy Cận trả lời phỏng vấn Tạp chí Văn học, nói rằng “chưa bao giờ tôi viết sung sức như bây giờ”, thế là dấu hiệu của tuổi già rồi chứ còn gì nữa (cười). Còn ông Nguyễn Khải đi tìm các cụ 5 đời nhà ông ấy, từ ông tổ Nguyễn Bặc ở Thanh Hoá, tìm cho kỳ được rồi ông ấy viết lên cái “Thượng đế cười”, rồi ông sáng tạo ra cái nhân vật vợ ông ấy hay ghen ấy...
Bây giờ, nếu nhà văn Tô Hoài chỉ được viết một cuốn tiểu thuyết nữa thôi, ông sẽ nói cho thế hệ sau điều gì trong cuốn sách đó? Điều gì cần thiết nhất nhà văn Tô Hoài cần nói lại?
- Chắc chắn tôi cũng chỉ làm được như thế thôi. Có lẽ tôi cũng định viết, dự định cũng nhiều nhưng không nhiều bao nhiêu, nhiều lắm là viết được 1 quyển, cũng định viết 1 cuốn hồi ký nữa, nhớ cái gì thì viết cái ấy, cũng không viết nhiều. Cũng không viết trùm lớp một cách có trật tự. Mình cũng định viết 1 cái về thời bao cấp.
Là người đã sống với các nhà văn nổi tiếng, ông thấy ai là người ít thay đổi nhất trong văn nghiệp của mình, bất luận tình huống bên ngoài như thế nào thì ai vẫn giữ được khí chất của họ? Mà chất là thực chất chứ không phải cái hình thức bên ngoài kiểu Nguyễn Tuân đâu?
- Có lẽ chỉ có Nguyên Hồng.
Cái chất của Nguyên Hồng là gì?
- Ông ấy chỉ là như thế thôi. Trước Cách mạng cũng thế, ông ấy gần như chẳng để ý gì đến xung quanh cả. Cho nên tôi nói đến ông ấy trong quyển “Bước ngoặt” là: ông lúc nào cũng đeo, cũng vác cái tha ma trên lưng, ông ấy thích cầm bản thảo lắm. Thứ hai là tôi không thích làm cái chuyện đó nên ông ấy chửi tôi ghê lắm, ông ấy thích bản thảo lắm. Cái ý nghĩ của ông ấy là cái ý nghĩ từ bao giờ ấy, sẵn có. Cũng như cái hồi làm báo Văn mà ông ấy sai lầm thì, cái ví dụ này là ví dụ điển hình về ông ấy, ông ấy giật chồng báo Văn ra như thế này, ông ấy nói một hồi, ông bảo tôi bỏ công bỏ việc ở cơ quan, bao nhiêu việc tôi bỏ hết về để đi làm báo Văn thì tôi có thể sai lầm thế nào được. Ông ấy khóc hu hu lên! Đã mất công như thế rồi thì không thể sai lầm được, thế là người ta tha…
Bốn nhà văn, nhà báo: Tô Hoài, Xuân Thủy, Nam Cao - Báo "Cứu quốc" (thứ nhất, thứ hai và thứ tư từ trái qua) và Nguyễn Huy Tưởng - Báo "Văn nghệ" . (Ảnh: Trần Văn Lưu).
Còn ông thì có phải là người thay đổi nhiều với thời cuộc không, hay là như lúc đầu ông nói cái thay đổi của ông chỉ là hình thức bên ngoài, còn cái bản chất bên trong là không bao giờ thay đổi?
- Chắc thế! Mình thì làm thế nào để cho mình dễ chịu hơn, không như Nguyên Hồng thì bỏ lên Nhã Nam sống.
Theo ông thì người viết ít như ông Kim Lân thì có thể được coi là thành công hơn, trong khi ông Bùi Hiển lại viết nhiều. Vậy thì một người như thế nào thì được coi là thành công trong chế độ mới?
- Có lẽ thế này, không cứ là viết ít hay viết nhiều. Tên gọi là nhà văn thì có một, hai quyển được, không cứ là viết nhiều. Còn ông Kim Lân ông viết ít là do sau này ông ý lười, ông ý mất thói quen viết.
Đơn giản là mất thói quen viết thôi chứ không phải là một sự chủ định tạo dáng, đúng không?
- Không, không. Mất thói quen viết thôi chứ còn với những tác phẩm của Kim Lân như thế có thể là thành công, với Bùi Hiển một hai truyện như thế là thành công. Ông Bùi Hiển thì bố ấy cũng như là công chức, rất là hiền, rất là chăm chỉ. Một lần thì ông Hiển đưa cho tôi xem 1 truyện ngắn, ông ấy nói, chúng nó bảo tôi không biết viết về tình yêu, đây ông xem như thế nào. Thì ông ấy tả cái nhân vật nữ kỹ lắm, nào là tóc, tai, thì mình mới bảo là ai chứ đây là bạn gái của ông chứ còn chó gì nữa (cười). Anh ấy là cái người chân chỉ, thật.
Xuân Diệu đã từng viết rằng “Nhân loại xem gần vẫn xấu xa”, câu này có thể áp dụng vào đại đa số các nhân vật trong thế hệ nhà văn các bác không? Văn của họ rất ấn tượng, nhưng khi tiếp xúc với họ thì liệu độc giả bình thường có bị thất vọng hay không? Bởi vì ở một cơ chế khác thì lúc nào họ cũng trung thực với họ, họ không e ngại giấu giếm những điểm yếu của mình, còn các nhà văn của chúng ta thường hiện lên dưới mắt công chúng trong một ánh sáng quá loá và che hết tất cả những góc cạnh đi, và khi gặp nhà văn ấy thì độc giả hay bị thất vọng. Điều ấy có đúng với cả thế hệ bác hay không?
- Không biết cái lớp sau này thế nào, nhưng mà đối với chúng tôi, gọi là thế hệ cũ thì thật ra theo cá nhân tôi, nó yếu và nó mỏng, không nhiều. Hầu hết mình vẫn dùng cái câu là “nhai thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi”. Những người trở thành tài năng lớn như Vũ Trọng Phụng cũng là viết để kiếm ăn.
Rất nhiều bạn đọc cũng như một số nhà văn, nhà phê bình rất nuối tiếc cho những người, điển hình là hai nhà văn mất quá sớm là Vũ Trọng Phụng và Nam Cao. Vậy đến bây giờ bác có thể nghĩ rằng liệu họ có thể đạt được những đẳng cấp vinh quang hơn, lớn hơn nếu họ còn sống không?
- Tôi không được biết những cụ như Tản Đà hay Vũ Trọng Phụng khi tôi bắt đầu viết văn. Nhưng mà tôi biết Nam Cao… Nam Cao là một cái anh tiểu tư sản trí thức, bởi vì gia đình ông ấy thì ở nông thôn thật nhưng đến đời ông ấy là học sinh ở Nam Định, ông ấy đã đỗ Thành Chung, đỗ diplome, tức cũng là trí thức. Ông ấy tiếp xúc với cái giới sau này khi ông ấy đi dạy học. Cái truyện “Chí Phèo” là 100% cái chuyện của chị ấy kể ông ấy nghe. Tất cả những truyện Nam Cao viết là đều vợ kể hết (cười).
Nếu cho ông chọn thì ông chọn sự êm đềm hay một sự điêu đứng để tác phẩm hay?
- Không nên êm đềm. Lại nói chuyện khôn ngoan của tôi, tôi đi nước ngoài nhiều nhưng nếu để ý sẽ thấy có bao giờ tôi đi dưới danh nghĩa Hội Nhà văn đâu. Cho đến bây giờ tôi vẫn là Phó chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Á - Phi - Mỹ Latinh (cười). Tôi đi theo con đường ngoại giao nhân dân… (cười). Nói thực, đời sống của tôi nó cũng nhỏ nhoi thôi. Từ gia đình cho đến bản thân, cuộc sống không có cái gì nó to lớn. Cho đến tận bây giờ tôi cũng chẳng biết dòng họ tôi là ai, ông cụ tôi là ở đâu, như thế nào. Tôi sống với mẹ ở quê ngoại tôi…
Tôi đã đọc ở đâu đó, những ai giàu sức sáng tạo thì hay bị bệnh gout vì chất axít gây nên, bệnh gout cũng là axít kích thích sự sáng tạo. Tất nhiên, ngược lại chưa hẳn đã đúng, không phải ai mắc bệnh gout đều giàu sức sáng tạo. Ông có nhận xét gì về làng văn hiện nay?
- Thực ra thì tôi cũng già rồi, không biết nhiều thông tin, nói gì cũng khó. Tuy nhiên, tôi thấy rằng đội ngũ những người viết hiện nay mạnh đấy chứ, nhất là về số lượng. Mặt bằng trí thức cao hơn trước. Tuy nhiên, sáng tác không hiểu vì sao vẫn cứ bình bình thế nào ấy, không thấy “đỉnh”!
Ông hiện nay vẫn uống được bia chứ?
- Tương đối! Những anh hay uống bia với tôi ngày trước, giờ chẳng còn mấy ai; những anh như anh Bổng chết hết rồi.
Ông có cảm thấy cô đơn khi tiếp chuyện thế hệ hậu sinh như chúng tôi không?
- Không!