Chống 'Diễn biến hòa bình': Không thể vỗ tay bằng một bàn tay

Hoàng Khánh 25/09/2019 08:30

Trước một số luận điệu xuyên tạc gần đây, cho rằng Chính phủ Việt Nam đang âm thầm đưa kinh tế tư nhân chiếm vai trò chủ đạo của nền kinh tế, làm chệch hướng đường lối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2019: “Một khu vực tư nhân lớn mạnh, bền vững, bên cạnh khu vực doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hơn, khu vực kinh tế hợp tác xã năng động hơn sẽ tạo ra một tương lai thịnh vượng, bền vững hơn cho nền kinh tế Việt Nam”.

Chống 'Diễn biến hòa bình': Không thể vỗ tay bằng một bàn tay

Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.

Không phải là “tấm áo khoác hờ”

Đảng, Nhà nước ta đang triển khai nhiều chính sách, giải pháp nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”, “phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2030 chiếm khoảng 60 - 65%GDP”. Rõ ràng là thế, tuy nhiên các thế lực thù địch đã lập tức tung ra hàng trăm bài viết cho rằng Việt Nam đã “công khai phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước” và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam giờ chỉ còn là “ruột xanh, vỏ đỏ”...

Nhiều bài viết trên các trang điện tử tiếng Việt ở nước ngoài nhào nặn cho rằng, rốt cuộc, Việt Nam đã chấp nhận kinh tế thị trường tự do, “định hướng XHCN chỉ còn là tấm áo khoác hờ”. Theo họ, nếu tiếp tục định hướng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đóng vai trò chủ đạo thì chắc chắn sẽ “không chỉ Vinashin, Vinalines... mà nền kinh tế sớm muộn cũng sẽ đổ bể và hậu quả chính trị của nó còn tồi tệ hơn”.

Khoan bàn về chuyện đúng sai, trước hết phải thấy rõ những người phê phán DNNN đã cố tình nhầm lẫn giữa vai trò kinh tế nhà nước và vai trò DNNN.

Trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta luôn khẳng định chủ trương phát triển và nâng cao hiệu quả của các thành phần kinh tế, trong đó khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: DNNN và kinh tế nhà nước phi DN (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia...). Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước không chỉ bao hàm doanh nghiệp nhà nước mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của Nhà nước, bao hàm sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của nhà nước. Ngay trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay cũng có hai loại, một loại kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, một loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Giữa hai loại trên còn có loại DN giao thoa, nằm giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng kết cấu hạ tầng như cầu đường, sân bay, bến bãi...

Phân tích như vậy để thấy, khi khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, chứ không phải DNNN, Đảng ta cũng khẳng định rằng, các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Nhà nước nào cũng phải sắm vai “bác sĩ”

Một điều cũng cần nói rõ là “sức khỏe” của mỗi DN không phụ thuộc vào chế độ sở hữu. Nếu cho rằng, chế độ công hữu là nguồn gốc dẫn đến tình trạng yếu kém hay phá sản của một số DNNN ở Việt Nam thì các nhà “kinh tế học” sẽ giải thích thế nào về sự sụp đổ hàng loạt các tập đoàn kinh tế hùng mạnh ở Mỹ và các nước trong khu vực Eurozone mà Lehman Brothers là một ví dụ. Năm 2008, vào thời điểm nền kinh tế Mỹ chao đảo nhất, những tập đoàn kinh tế có bề dày lịch sử như Ford, General Motors, Chrysler trong công nghiệp ô tô hay Citygroup, Bank of America trong lĩnh vực ngân hàng cũng đã ngấp nghé bên miệng vực sụp đổ. Để những tập đoàn trên “sống sót”, Chính phủ, Ngân hàng Trung ương và Cục Dự trữ liên bang Mỹ đã phải tung ra những gói cứu trợ khổng lồ. Hậu quả của việc Nhà nước Hoa Kỳ dồn nguồn lực vào giải cứu các tập đoàn kinh tế lớn đã khiến người dân Mỹ “tức nước vỡ bờ”, phát sinh phong trào “Chiếm phố Wall” với khẩu hiệu “1% số người giàu chiếm giữ 90% số tài sản đất nước”, phản ánh bức xúc của số đông người dân khi Chính phủ Hoa Kỳ quá ưu ái các “gã khổng lồ” kinh tế tư nhân.

Ở đâu cũng vậy, để giữ ổn định kinh tế vĩ mô, thể hiện vai trò điều tiết thượng tầng, Chính phủ của mọi quốc gia đều phải sắm vai “bác sĩ” chăm sóc sức khỏe cho các “ông lớn” của nền kinh tế. Vấn đề là Nhà nước phải bảo đảm để những “liều thuốc” đưa ra phải phục vụ lợi ích cho số đông chứ không được phục vụ cho một nhóm đặc quyền, đặc lợi. Nhận rõ nguyên nhân yếu kém dẫn tới phá sản của các tập đoàn kinh tế trong nước và nước ngoài để thấy rõ một điều: Chế độ sở hữu không phải là nguyên nhân yếu kém của DN, Nhà nước nào cũng phải lo ổn định kinh tế vĩ mô, bản chất Nhà nước sẽ quyết định đến sự “chăm sóc” của Nhà nước dành cho đông đảo người dân hay một số ít nhà giàu trong xã hội.

Ở nước ta, việc xóa bỏ đặc quyền, đặc lợi của DNNN đã được tiến hành bài bản, chắc chắn, phù hợp với quy luật thị trường. Từ năm 2010 đến nay, khi Luật DNNN bị xóa bỏ, các DNNN đã thực hiện chuyển đổi hoạt động theo Luật DN.

Không thể phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước

Theo tài liệu tại “Bộ chỉ tiêu chủ yếu đánh giá mức độ phát triển DN cả nước và các địa phương năm 2017 và giai đoạn 2010-2017” (Tổng cục Thống kê) cho thấy, chỉ tính riêng năm 2017, khu vực DNNN mặc dù đang giảm về số lượng nhưng là các DN có quy mô lớn nên vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh hiện nay vẫn còn khá lớn với 9,5 triệu tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn của toàn bộ khu vực DN, tăng 19,2% so với năm 2016. Đặc biệt, trong cả 3 khu vực (khu vực DNNN, khu vực DN ngoài nhà nước và khu vực DN FDI), khu vực doanh nghiệp nhà nước đang có mức thu nhập bình quân tháng một lao động trong năm 2017 cao nhất với 11,91 triệu đồng, tăng 4,4% so với năm 2016.

Nhìn lại giai đoạn 2010-2017, bình quân giai đoạn 2010-2017, mỗi năm các khu vực doanh nghiệp thu hút thêm 15,4% vốn cho sản xuất kinh doanh (SXKD). Trong đó, khu vực DNNN mặc dù đang giảm về số lượng nhưng đều là các doanh nghiệp có quy mô lớn nên vốn thu hút vào SXKD hiện nay vẫn còn khá lớn, trong giai đoạn 2010-2017, mặc dù số DN, số lao động liên tục giảm (trung bình mỗi năm giảm 4%), nhưng vốn đầu tư vào SXKD của khu vực này vẫn tăng, mỗi năm thu hút thêm 13,2% vốn cho SXKD.

Cũng trong giai đoạn 2010-2017, bình quân mỗi năm doanh thu của các khu vực DN tăng 15,6%, riêng khu vực DNNN tăng chậm với 6,3%/năm do đang trong quá trình thực hiện chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại. Về đóng góp vào ngân sách nhà nước, mỗi năm khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,1%/năm (thấp hơn mức bình quân). Về thu nhập bình quân tháng của người lao động, khu vực này tăng 8,9%/năm.

Trên thực tế, hiệu quả kinh doanh của DNNN xét trên tiêu chí lợi nhuận tạo ra, nộp ngân sách nhà nước có kết quả khá tích cực. Nổi lên trong giai đoạn 2011-2016 có những DNNN nộp ngân sách lớn, như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam: 147.941 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội: 131.400 tỷ đồng. Phân tích những số liệu nói trên, Tiến sĩ Nguyễn Huy Thám- nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong (Hà Nội) cho rằng: “Như vậy có thể thấy, DNNN vẫn là lực lượng vật chất có tiềm lực mạnh về tài chính, nắm giữ tài nguyên, đất đai, thương hiệu, lực lượng lao động, nguồn vốn, có đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, quản lý hùng hậu…Lịch sử đã chứng minh, cho đến ngày nay, các nền kinh tế thành công đều phát triển không thể bằng cách tự điều tiết mà cần có sự can thiệp và hỗ trợ từ phía Nhà nước. Nhà nước với vai trò ban hành thể chế phát triển; Nhà nước với tư cách một chủ thể tiêu dùng và đầu tư lớn; Nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế, trong đó có doanh nghiệp nhà nước để tác động, dẫn dắt nền kinh tế… đi đúng đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đề ra”.

Như vậy, lịch sử kinh tế thế giới khẳng định, “vỗ tay phải bằng hai bàn tay”, kinh tế thị trường muốn thành công không thể thiếu bàn tay điều tiết vĩ mô của Nhà nước.

Và một điều nữa mà các nhà “kinh tế học bàn phím” đã quên, là tại Hội nghị Trung ương 5, khóa XII, bên cạnh việc ra Nghị quyết số 10-NQ/TW “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”, Đảng ta cũng đồng thời ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN”. Nghị quyết khẳng định quan điểm: “DNNN là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. DNNN tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”. Và như vậy, không hề có một chủ trương “ruột xanh, vỏ đỏ” nào, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hoàng Khánh