Trao giải thưởng Văn nghệ dân gian năm 2019: Xuất hiện nhiều công trình công phu
Sáng 20/12, tại Hà Nội, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức Lễ Mừng thọ các vị Hội viên cao tuổi và Trao giải thưởng Văn nghệ dân gian năm 2019. Năm nay, không có tác phẩm đoạt giải Nhất; Hội đồng chấm 2 Giải Nhì A; 12 Giải Nhì B; 21 giải Ba A; 18 giải Ba B; và 5 giải Khuyến khích.
Về các tác phẩm dự giải, Văn phòng Hội nhận được 77 công trình. Có 5 công trình phạm quy (Công trình dự giải không đủ dung lượng hoặc đã quá hạn). Các công trình thuộc các lĩnh vực: Ngữ văn 22 công trình; Phong tục tập quán 33 công trình; Nghệ thuật biểu diễn 9 công trình; Nghệ thuật tạo hình 3 công trình; và Tri thức dân gian 5 công trình.
Đánh giá về chất lượng các công trình, GS.TSKH Tô Ngọc Thanh - Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho biết: Trong số các công trình năm nay, đã xuất hiện những công trình có tính chất tổng kết hoặc giải mã từ góc tiếp cận lý luận dày dặn và rất công phu.
Công trình được giải Nhì A “Tìm hiểu truyện thơ dân gian Việt Nam” của Triều Nguyên được nhận xét là công trình có tính chất tổng kết hoặc giải mã từ góc tiếp cận lý luận. Công trình đã đưa ra nhận xét là chúng ta đã có một hệ thống truyện thơ dân gian. Tác giả cũng bàn đến một vài đặc điểm chung, ví dụ: Liệu cốt truyện có hậu, có phải là đặc trưng phổ biến của truyện thơ hay không? Một câu hỏi khác cũng được đặt ra: Người Chăm có thơ 6 - 8 không và liệu đó có phải là nguyên mẫu cho thơ 6 - 8 Việt Nam hay không?
Hay như công trình “Hệ thống Tam phủ - Tứ phủ trong tư liệu văn bản và thực hành tín ngưỡng của người Kinh và một số tộc người thiểu số miền núi phía Bắc” (Giải Nhì A) của một nhóm gồm 7 tác giả, trong đó có tác giả người Nhật Onishi Kazuhiko do TS Chu Xuân Giao làm chủ biên. Công trình này đã nghiên cứu quá trình hình thành và tồn tại của tín ngưỡng này, một tín ngưỡng phổ biến của người Việt. Lần đầu tiên, tín ngưỡng này được nghiên cứu dựa trên khối tư liệu điền dã và thư tịch trong các sách Hán Nôm của người Việt, trong sách viết bằng “chữ quốc ngữ”, trong các ghi chép của người Pháp, trong báo chí đầu thế kỷ XX, trong các văn chầu, trong sinh hoạt của người Việt ở Trung Quốc, Pháp, Mỹ và một số nước đồng văn Hán học khác. Công trình dày dặn và rất công phu, đã dẫn ra một quá trình chuyển đổi từ bộ Tam sang bộ Tứ, từ Pháp sang Vị, từ Nam sang Nữ, đồng nhất và dị biệt…
Ngoài ra, còn một vài công trình tuy chưa sâu nhưng cũng đã bước vào địa hạt của tư duy lý luận, có thể kể đến công trình “So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam: của tác giả Hà Xuân Hương; “Nghiên cứu một số đặc điểm nội dung và nghệ thuật của truyện cổ dân gian các dân tộc thiểu số Lào Cai”; “Truyện cổ dân gian có yếu tố Phật giáo ở Việt Nam và Myanmar - Nghiên cứu theo hướng tiếp cận bối cảnh”; “Thần thoại học và thần thoại Việt Nam đa tộc người”…
Các công trình sưu tầm cũng có những nét mới là: Tuân thủ tiêu chí ghi lại tuyệt đối trung thực với lời kể của nghệ nhân. Bản dịch song ngữ từ các công trình có tiếng dân tộc chú trọng việc sát nghĩa của bản chính, tránh tối đa tình trạng Việt hóa. Tuy nhiên, vẫn còn thói quen “biên tập văn học” mà thực chất cũng là một dạng “Việt hóa” văn bản theo những chuẩn mực của tiếng Việt, ở một vài công trình sử thi Tây Nguyên.