Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Óc Eo
Giá trị của văn hóa Óc Eo Nam Bộ đã được các chuyên gia trong nước, quốc tế ghi nhận. Các cơ quan chức năng đang khẩn trương xây dựng hồ sơ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản Văn hóa thế giới.
Di tích văn hóa Óc Eo.
1. Văn hóa Óc Eo là tên gọi do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đề nghị đặt cho di chỉ ở núi Ba Thê, hiện nay thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Nơi này có thể đã từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII. Vào thập niên 1920, nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đã dùng không ảnh chụp miền Nam Việt Nam và phát hiện ra địa điểm này cùng với nhiều kênh đào và các thành phố cổ khác. Một trong những kênh đào này đã cắt tường thành của một khu vực rất rộng. Malleret thử tìm kiếm các cấu trúc này trên mặt đất. Vào ngày 10/2/1944, ông bắt đầu đào các hố khai quật. Malleret đã phát hiện được các di vật và nền móng các công trình chứng minh cho sự tồn tại của một địa điểm thương mại lớn mà các thư tịch của Trung Hoa đã từng miêu tả về vương quốc Phù Nam…
Theo Tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu- Phó Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Ngay từ đầu thế kỷ 20, những cổ vật đầu tiên của văn hóa Óc Eo đã được phát hiện trên cánh đồng Óc Eo - Ba Thê thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Do sự phong phú của loại hình, sự độc đáo của chất liệu, vẻ đẹp rực rỡ của mỹ thuật chế tác, các di vật của Văn hóa Óc Eo đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều học giả nổi tiếng người Pháp như: G.Coedès, L.Malleret, H.Parmentier…
Tuy nhiên, công cuộc nghiên cứu văn hóa Óc Eo chỉ thực sự bắt đầu bằng cuộc khai quật của L.Malleret tại di tích Óc Eo vào năm 1944. Nhiều năm sau đó, L.Malleret đã công bố kết quả khám phá và nghiên cứu của ông trong bộ sách có nhan đề “Khảo cổ học ở đồng bằng sông Cửu Long” lần lượt xuất bản từ năm 1959 đến năm 1964.
Từ sau năm 1975, nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở Đồng bằng sông Cửu Long là một nhiệm vụ trọng yếu của khảo cổ học Việt Nam. Nhiều cuộc khai quật quan trọng đã diễn ra tại các di tích Nền Chùa (Kiên Giang), Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang), Cây Gáo (Đồng Nai), Lưu Cừ (Trà Vinh)…
Các phát hiện mới đã làm cho số lượng di tích và di vật tăng gấp nhiều lần so với trước đây. Diện mạo văn hoá Óc Eo ngày càng rõ nét. Sau quá trình khảo cổ học, các chuyên gia đã chỉ ra rằng, cách đây hàng ngàn năm, người Phù Nam đã phát triển rực rỡ rất nhiều nghề như chế tác đồ kim khí, đồng, sắt; nghề gia công các đồ thiếc; nghề kim hoàn và đúc tiền bằng bạc; nghề làm đá quý và thủy tinh; nghề chạm khắc đá; nghề đồ gốm... Đặc biệt, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được loại hình mộ táng mà trước đây các học giả Pháp chưa biết đến.
2. Hiện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và 3 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang đang tích cực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hồ sơ đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh di sản văn hóa thế giới đối với nền văn hóa Óc Eo.
Theo đó, khu vực đề cử di sản văn hóa thế giới với hồ sơ này sẽ gồm 3 khu vực là: Khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang), Khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang) và Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp). Quá trình làm hồ sơ phải tiến hành song song với công tác nghiên cứu bởi đây không chỉ là trách nhiệm của ngành và các đơn vị liên quan mà còn là trách nhiệm của thế hệ sau đối với lịch sử.
Nhiều cuộc hội thảo liên quan đến xây dựng hồ sơ Văn hóa Óc Eo đã được tổ chức, thu thập ý kiến đóng góp của các chuyên gia. Theo Giáo sư, Tiến sỹ Lưu Trần Tiêu- Chủ tịch Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia, giá trị của nền văn hóa Óc Eo là phát triển thịnh vượng trên diện rất rộng, không gian lớn, loại hình di tích rất đa dạng và phong phú, bao gồm nơi cư trú, mộ táng, đô thị cổ, một trung tâm thương mại hàng đầu của Đông Nam Á. Các hiện vật khai quật được đã cho thấy có sự giao thương rộng với nhiều quốc gia trên thế giới. Do đó, hồ sơ vinh danh Văn hóa Óc Eo nên làm rõ các tiêu chí về giao thoa văn hóa của di sản cũng như những nét độc đáo, đặc biệt về truyền thống văn hóa, giá trị nổi bật về hình thức lưu trú truyền thống đang bị tổn thương do những tác động theo thời gian, làm rõ tính bản địa về sự phát triển liên tục, đa dạng tiêu biểu…
Cuối tháng 11 vừa qua, tại tỉnh An Giang, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh An Giang tổ chức hội thảo khoa học cấp quốc gia “Khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa: Khai quật, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị”. Tại hội thảo, các đại biểu tập trung đánh giá về giá trị lịch sử, văn hóa của các di tích và di vật đã được khai quật, xác định vị trí của nền văn hóa Óc Eo trong tiến trình lịch sử của dân tộc và trong bối cảnh khu vực lúc bấy giờ, nhằm xây dựng những luận cứ khoa học để xây dựng hồ sơ khoa học đề cử UNESCO xem xét công nhận vùng không gian Văn hóa Óc Eo - Ba Thê và Nền Chùa là di sản văn hóa thế giới trong thời gian tới; đồng thời, làm cơ sở cho các đơn vị liên quan đề ra các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị khu di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa trong giai đoạn tiếp theo.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Thuấn - Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, Trưởng ban Chỉ đạo - Chủ nhiệm Đề án Di tích Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa cho biết, đến nay có thể nói, một diện tích đủ lớn của nền văn hóa Óc Eo đã được khai quật, các di tích và di vật được xuất lộ bước đầu làm lộ diện một nền văn hóa khảo cổ đã từng tồn tại cách đây khoảng 2.000 năm trên mảnh đất Tây Nam Bộ. Độ rộng không gian mà nền văn hóa này lan tỏa, cùng với chiều sâu thời gian lịch sử mà nền văn hóa này tồn tại, cũng như sự phong phú và độc đáo của các giá trị văn hóa của các di tích và di vật của nền văn hóa Óc Eo cho phép chúng ta tự hào về sự quyết liệt của ý chí, sức sáng tạo của khối óc cũng như sự khéo léo của bàn tay, sự tinh tế về tâm hồn của bao thế hệ ông cha ta gửi gắm nơi đây.
Nhiều ý kiến cho rằng, muốn bảo tồn di tích văn hóa Óc Eo, việc khảo sát và khai quật nghiên cứu ở các địa điểm cần có kế hoạch toàn diện, chia thành từng giai đoạn, khai quật và bảo tồn đồng thời, tức là phải có các biện pháp kỹ thuật bảo tồn ngay từ khi khai quật. Công cuộc khai quật nghiên cứu ở đây cần có sự hợp tác đồng bộ của nhiều cơ quan chuyên ngành như khảo cổ học, trùng tu di tích, lịch sử - văn hóa, du lịch…