Cuộc đời là một bản tráng ca...
Trong đội ngũ đông đảo các nhà thơ cùng thế hệ, không mấy ai có một lý lịch tham gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ phong phú, sôi nổi, hoành tráng, lắm bi thương, mà cũng nhiều giây phút huy hoàng như nhà thơ mang tên dòng sông quê: Thu Bồn.
Ông từng kể, năm 1947, ngày đầu, Pháp chiếm Quảng Nam, Điện Bàn quê ông thường xuyên bị giặc về càn quét. Người chết nhiều, phần vì đạn bắn, phần vì đói. Cả làng chỉ còn một đảng viên duy nhất bám trụ, đêm đội hầm bí mật lên đi gom xác đồng bào. Mới 12 tuổi, ở lại, hàng đêm, Hà Đức Trọng - tên khai sinh của nhà thơ - soi đuốc, cho người đảng viên bó xác người đi chôn. Có đêm đói quá, bị ngất, bà mẹ phải đưa về tìm gạo dự trữ từ vùng tự do gửi vào, nấu cho bát cháo loãng để hồi sức.
Trước khi được gửi ra vùng tự do đi học, người đảng viên trao cho Trọng một bảo vật của Làng, sợ để lại không giữ được. Bà mẹ sợ là vàng bạc châu báu gì, con khó giữ nổi, nên đòi xem. Hóa ra đó là một lá cờ Đảng. Sau này, trong nhiều trận chiến đấu ác liệt, lá cờ đã được phất cao trong các trận tấn công. Nhiều đồng đội hy sinh anh dũng. Cha anh bị địch bắt và chết ở trong tù. Người chị gái mới 18 tuổi, là một cán bộ đầy triển vọng, bị bắt, không khai, chúng xẻo từng bộ phận thân thể, và chặt đứt ngón tay để lấy chiếc nhẫn vàng là quỹ của Đoàn thể mà chị được tin cậy trao gửi. Hiện thực khốc liệt đó, đã giục Hà Đức Trọng viết nên những bài thơ đầu tiên. Tham gia các hoạt động văn nghệ, động viên tinh thần quân và dân hăng hái chiến đấu. Những ngày được đi học văn hóa ngắn ngủi, trong hoạt động cùng đóng kịch, ngâm thơ, đã có cảm tình với người con gái đầu tiên. Nhưng chú cô gái, là Hiệu trưởng, đã tìm cách ngăn cản, bởi ông lo rằng cháu mình sẽ khổ một đời, vì yêu một chàng trai đẹp mã, hào hoa lại có tài văn nghệ. Ngỡ là với Hiệp định Giơnevơ 1954, đất nước chia hai miền, Hà Đức Trọng theo đơn vị đi tập kết, đã buộc hai người phải chia tay mãi mãi. Nào ngờ, sau mấy năm tập kết, được vào học Trường Sĩ quan Lục quân, ĐHSP, tuyên huấn, báo chí, rồi năm 1961, lại được trở về Nam sớm nhất trong những người làm văn nghệ.
Tiểu đội năm ấy, có Nguyễn Chí Trung, Thanh Giang,… Trường ca Bài ca chim Chơ rao được viết khá sớm trong những ngày đầu nhà thơ lăn lộn xây dựng cơ sở ở vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Năm 1962, nhân có nhiệm vụ ra trạm Ca Tu ở ranh giới Lào - Kon Tum đón đoàn cán bộ Mặt trận Dân tộc giải phóng MNVN trên đường ra Bắc, gặp nhà thơ Thanh Hải, tác giả bài thơ nổi tiếng Mồ Anh hoa nở, Hà Đức Trọng mới trao gửi nhà thơ mang ra.
Mãi đến 1964, Bài ca Chim Chơ rao mới được báo Văn nghệ tung ra trong một phụ bản in đặc biệt với những lời giới thiệu rất nồng nhiệt của các nhà thơ đang là lãnh đạo Văn nghệ bấy giờ. Cũng từ trường ca này, mà bút danh Thu Bồn trở nên nổi tiếng và được đặc biệt tin yêu ở chiến trường Khu V nổi tiếng ác liệt. Người lãnh đạo Văn nghệ Quân khu - nhà văn Nguyên Ngọc - mất khá nhiều thời gian lặn lội khắp các vùng ven đồng bằng, với tấm ảnh nhỏ của cô bạn cùng học xưa đã mờ theo thời gian, để tìm ra manh mối cố nhân cho Thu Bồn. Chị Đỗ Thị Thanh Thu- tên cô gái ấy, tham gia đấu tranh, bị bắt vào tù. Tươi trẻ, mặt hoa, da phấn, nữ tù nhân trẻ được nhiều lính Cộng hòa săn đón và lợi thế đó đã giúp chị thoát khỏi nơi giam giữ. Không còn chọn lựa nào khác, chị phải chạy vào Sài Gòn, tá túc nhà người thân. Tại đây, chị móc nối, tham gia vào đường dây Biệt động Sài Gòn. Bắt được liên lạc, báo cáo tổ chức và được Thành ủy Sài Gòn điều về công tác ở Khu V vào năm 1965. Dù giữa rừng sâu, đám cưới được chuẩn bị khá chu đáo. Có gà, nếp, kẹo bánh, trà thuốc mua từ nội thị mang về. Phòng cưới đã trang trí cờ hoa, khẩu hiệu. Nhưng ngay trước giờ cử hành lễ cưới, thì một trận B52 dội xuống căn cứ, dọn đường cho biệt kích đổ bộ, cả cơ quan vội vàng sơ tán trong những cánh rừng trụi lá vì chúng rải chất độc da cam. Bao nhiêu vật chất công phu chuẩn bị tan tác trong bom đạn. Một tuần sau, khi địch rút, trở về, thủ trưởng tuyên bố, coi như đã cưới rồi, “cho chúng nó về ở với nhau”.
Nhà thơ Thu Bồn (phải) và bạn bè văn nghệ ở nhà của thi sĩ Phùng Quán, 1995. Ảnh: N.Đ.Toán.
Năm 1966, cháu Hà Thảo Nguyên ra đời. Sinh ra chân tay khòng khèo, bác sĩ phải bẻ gãy để bó bột lại cho bình thường. Năm 1968, sau khi tham gia tổng tấn công Mậu Thân, vào Đà Nẵng, bị thương trở về căn cứ, lại lúc chị Thu mang bầu cháu thứ 2, năm 1969, tổ chức cho anh chị ra Bắc. Nhà thơ phải đục hai lỗ ba lô để hai chân Thảo Nguyên ra ngoài cõng đi suốt ba tháng theo dãy Trường Sơn. Mới ra đến Trạm Ho - Quảng Bình, ở cuối đường giao liên, chị Thu sinh cháu Hà Băng Ngàn. Tháng 12/1982, mới 16 tuổi, đẹp như một thiên thần, Hà Thảo Nguyên mất sau mấy năm bị bệnh máu trắng bởi nhiễm chất độc da cam. Hà Băng Ngàn lớn lên cũng không có khả năng làm việc, vì cùng một nguồn cơn. Một mối tình nặng sâu nghĩa tình, đã kết thúc bằng nỗi đau không nói nên lời, như hàng vạn cựu chiến binh khác, kết quả của những mối tình đẹp nảy sinh và gìn giữ được qua bao thử thách chiến tranh là hàng vạn, hàng vạn sinh linh tật nguyền. Tình cảnh bi thảm đó đã triệt tiêu khái niệm tình yêu trong nhiều đôi lứa. Trong một lá thư viết trên đường từ Matxcơva đi Ấn độ cuối năm 1971, như để thanh minh cho những quan hệ mới của mình, Thu Bồn có viết: Anh có lãng mạn chút ít nhưng còn hơn là chẳng có tâm hồn. Em đừng bận tâm nhiều. Nhà thơ từng có kha khá những mối tình, nhiều mối tình còn lưu dấu trong những bài thơ, từng sống chính thức với hai người phụ nữ đã từng có gia đình, có con, nhưng ám ảnh chất độc da cam trong mình, nên không dám có thêm con. Đó cũng là lý do, nhà thơ đã đột ngột chia tay với một nhan sắc trẻ trung, tươi đẹp.
Cái chút ít lãng mạn ấy, còn có lý do ở chính sức hấp dẫn của một người lính làm thơ, có vóc dáng tráng sĩ, lối sống phóng khoáng, luôn dám làm những điều mình muốn, với tất cả chân thành. Sau những năm chống Mỹ, còn lăn lộn với bộ đội làm kinh tế ở Khu V, chiến tranh biên giới phía Bắc, theo các cánh quân tình nguyện ở chiến trường Campuchia với hàng loạt trường ca, tiểu thuyết, truyện ngắn đặc sắc. Hình như câu thơ Chế Lan Viên ứng rất đúng cho trường hợp Thu Bồn: Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy/ Bên những Dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.
Ngay trong những năm chiến tranh, với tư cách tác giả Bài ca Chim Chơ rao, được Giải thưởng Lotus (Bông sen) của Hội các Nhà văn Á- Phi, Thu Bồn nhiều lần có mặt trong các đoàn nhà văn Việt Nam đi thăm nhiều nước. Với ưu thế của một nhà thơ, có khả năng ứng tác, trong nhiều buổi giao lưu với nhiều nhà thơ lớn quốc tế, phần trình diễn thơ của Thu Bồn luôn được bạn bè cỗ vũ, dù cùng đọc với K. Simônôp, Eptusencô. Aimatôp, ở Nga, trước bà Thủ tướng Ấn độ Inđira Găngđi, hay Tổng thống Ănggôla A. Nexto. Thơ Thu Bồn còn hào sảng vang lên trên đất Cu Ba xa xôi trong bài diễn văn của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trích dẫn khi nói đến tình hữu nghị giữa hai quốc gia. Hai câu thơ trong bài Gửi lòng con đến cùng cha viết dịp Bác Hồ qua đời: Cho con núi rộng sông dài/ Cho con lưỡi kiếm đã mài nghìn năm - từng được sinh viên đô thị miền Nam lấy làm biểu ngữ trong các cuộc xuống đường. Bài Đà Nẵng gọi ta viết trước đêm xung trận năm Mậu Thân được Ông Phạm Đức Nam- nguyên Chủ tịch tỉnh Quảng Nam, từng đánh giá tác động cổ vũ của bài thơ đối với bộ đội có sức mạnh ngang một binh đoàn. Bài Tạm biệt Huế ngày nay vẫn có trong lời dẫn của các hướng dẫn viên du lịch ở Cố đô.
Có một chuyện vui về thói quen tiếp đãi bạn bè rộng rãi của Thu Bồn. Hồi đầu về sinh sống ở TP Hồ Chí Minh, tự tay dựng nhà sàn ngay trong khuôn viên số 6 Đặng Thái Thân, làm nên một địa chỉ tụ họp bạn bè văn nghệ, đến lúc thấy chật chội, với sự giúp sức của bạn bè, ra mua đất đồi hoang tận suối Lồ Ồ ở Bình An- Bình Dương. Lại tự tay xây nhà sàn, nhặt đá sỏi tạo nên một khuôn viên với cây cảnh, hoa lá thật đẹp, còn có nhà gìn giữ những đồ dùng, dụng cụ sản xuất, cồng chiêng, nhạc cụ các dân tộc Tây Nguyên, gợi nhớ một phần đời đã sống. Bạn bè coi đây là một địa chỉ văn hóa, nhiều lần được giới thiệu trên truyền hình cả nước. Ông bạn Phạm Lân, có lần đưa một đoàn cựu chiến binh Mỹ ra thăm. Họ được chủ nhà tay dao tay thớt, đun nấu phục vụ một bữa ăn ngon lành.
…Riêng tôi nghĩ, tác phẩm của Thu Bồn như một cánh rừng nguyên sinh, ngoài những cây lá bình thường, nơi nào cũng có thể tìm thấy, còn có những loại đặc chủng, chỉ có thể có ở Thu Bồn, làm nên vị trí một nhà thơ, như lời đánh giá của nhà thơ Hữu Thỉnh: Nhắc đến Thu Bồn, người ta nhắc đến một tài năng vạm vỡ, một sinh lực tràn đầy, một người triệt để trong ý nghĩ và hành động, một người phát quang để vượt lên phía trước.