Tranh dân gian - vùng đất sống mới
Không phải là thú chơi sang trọng của những nhà sưu tập, những người thuộc giới “thượng lưu”, trong đời sống của người Việt trước khi hội họa châu Âu du nhập tới, tranh dân gian chiếm vị thế chủ đạo. Sự chuyển mình của tranh Đông Hồ cũng như của các loại hình mỹ/nghệ thuật dân gian nói chung trong bối cảnh mới thắp lên những hy vọng về các giá trị văn hóa của cha ông được lưu (và) truyền không chỉ cho con cháu mà với cả bạn bè quốc tế gần xa. Dịp Tết đến, mỗi gia đình dán vài tờ tranh Tết để hơi Xuân ùa vào nhà từ sau ngày ông công ông táo.
Trong xã hội hiện đại, những thú vui cũ, những trò chơi dân gian xưa đã dần được thay thế bằng các sản phẩm văn hoá tân thời. Karaoke thay cho hát đối đáp giao duyên, các game show hay game online dễ gây nghiện (như) đã thay cho các trò chơi dân gian của con trẻ như thả diều, nhảy ngựa, ô ăn quan, bịt mắt bắt dê v.v. Tranh dân gian xưa dường như cũng như đã đi vào quên lãng bởi tranh hiện đại hoặc tranh bằng những chất liệu đắt tiền hơn, cầu kỳ hơn: đá quý, vàng, bạc, xà cừ... Cũng có thể dễ dàng gặp tranh chép của tây bên cạnh hoành phi, câu đối giát vàng ở nhà vài người mới giàu. Sự giàu có không phải bao giờ cũng đi cùng với mỹ cảm nghệ thuật và tri thức.
Nhưng dù có khá nhiều người bị choáng ngợp bởi các loại tranh ngoại nhập và hiện đại trong cái xô bồ, náo nhiệt của đời sống hiện nay, vẫn còn những người giữ được thú chơi tranh dân gian. Đó chính là “mảnh đất nhỏ còn sót lại” để tranh dân gian bám rễ và tồn tại. Đó chính là “đất sống” mới cho tranh dân gian. Với những nỗ lực của các nghệ nhân, những người có tâm huyết với nghệ thuật truyền thống, các dòng tranh dân gian đã dần được nhớ lại và bắt đầu có sự hồi sinh. Có thể thấy rõ điều đó từ làng Hồ.
Hỡi cô lưng thắt bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề in tranh
Làng Mái trong câu ca chính là làng Đông Hồ (nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Làng Hồ từ xưa đã nổi tiếng khắp trong Nam, ngoài Bắc về nghề in tranh. Thời kỳ thịnh đạt, khách theo đường bộ từ Bắc Ninh về, từ Hà Nội sang, khách từ miền Nam, từ Thanh - Nghệ theo đường sông lên bến đò Hồ để “ăn tranh”. Họ nhắc nhau:
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ đến tháng chạp thì về buôn tranh
Làng Đông Hồ xưa có đến 17 (chi) dòng họ người dân làm nghề tranh. Dòng họ Nguyễn Đăng có đến 22 đời kế tiếp làm tranh. Gần đến dịp Tết là chợ tranh Đông Hồ lại tấp nập kẻ bán người mua. Tranh treo la liệt trong đình, ngoài bãi. Tranh bày trên chiếu, tranh treo trên dây, tranh còn được bán ngay tại nhà cho những khách quen. Năm 1938, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh đã lặn lội sang làng Hồ và đã chụp bức ảnh để đời có nhân vật là hai cô thiếu nữ răng đen bán tranh ở chợ tranh nơi cửa đình. Hơn 80 năm đã qua kể từ bức ảnh đó, cùng với thế cuộc, tranh Đông Hồ hôm nay đã mang những chuyển động mới của làng nghề dân gian trong thời hiện đại.
Điều khác biệt của tranh làng Hồ, chỉ có ở làng Hồ mà không có ở làng tranh nào khác, là được in trên giấy điệp. Vỏ con điệp (một loại giáp xác ở biển) được đem nung rồi tán mịn. Chất bột vỏ điệp này được hoà với hồ loãng rồi quết lên giấy dó hoặc giấy vỏ dâu tạo thành nền tranh óng ánh mà ấm áp trên lớp giấy xốp dễ hút “no” màu. Đông Hồ còn đặc sắc về cách in tranh. Tranh Hàng Trống và tranh Kim Hoàng được in nét rồi người làm tranh tô vờn màu trực tiếp bằng bút lông, còn tranh Đông Hồ được in theo phương pháp dùng bản gỗ in chồng tách màu - một bức tranh phải qua 4 - 5 lần in nét và các bản màu khác nhau. Màu in tranh cũng lấy từ thiên nhiên: sỏi son cho màu đỏ, lá chàm cho màu xanh, hoa hoè cho màu vàng tươi, than lá tre cho màu đen để viền nét... Trên mỗi bức tranh có sự kết tinh tri thức dân gian về đồ họa, về màu sắc, về cách thể hiện những chủ đề mang tính triết lý trong tư duy của người Việt. Các công việc tạo mẫu, khắc ván, làm giấy điệp trên nền giấy dó, chọn và chế năm màu sắc cơ bản (xanh, trắng, đỏ, vàng, đen) từ nguyên liệu tự nhiên, đến các dụng cụ và cả những thao tác in tranh đều là sự tích lũy kinh nghiệm, đúc kết tri thức qua nhiều thế hệ.
Đề tài của tranh làng Hồ rất phong phú, ngoài những chủ đề quen thuộc của loại tranh thờ: ông Công ông Táo; tranh các vị anh hùng trong lịch sử: Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đức Thánh Trần; tranh truyện cổ tích: Sơn Tinh -Thuỷ Tinh, Thạch Sanh cứu công chúa; tranh trang trí: Tố nữ, tứ quý (bốn mùa xuân - hạ - thu - đông)... Cuộc sống làng quê với những phong tục tập quán, những cảnh sinh hoạt đời thường của người nông dân cần cù chất phác dưới con mắt và bàn tay của những nghệ nhân Đông Hồ tài hoa, qua những nét khắc tinh xảo, qua những mảng màu tươi sáng bỗng trở nên lung linh, sinh động, đáng yêu: mục đồng (chăn trâu thổi sáo), thả diều, đánh đu, đánh vật, bịt mắt bắt dê, hứng dừa, đại cát (cậu bé ôm gà trống), lợn ăn khoai môn, đàn gà... Đôi khi lại gặp cái nhìn hóm hỉnh, sâu sắc về nhân tình thế thái ở tranh đánh ghen, đám cưới chuột... Mỗi bức tranh đều mang nhiều lớp ý nghĩa, phản ánh nhiều khía cạnh nhân sinh. Bức tranh trên giấy điệp vẽ nên cả tâm hồn bình dị và khát vọng của người nông dân Việt về một cuộc sống thanh bình, sinh sôi, sung túc. Người ta mua tranh Đông Hồ về treo trong những ngày đón xuân như mang về cho cả gia đình niềm hy vọng tốt đẹp trong năm mới:
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn
đua nhau đẻ nhiều.
Cùng với khổ tranh “cổ điển” 26 x 37 cm được lồng trong khung cho dễ treo thay vì dán lên vách như xưa, tranh được in với nhiều kích cỡ khác để đưa lên mành tre để treo và cũng có thể cuộn lại cho du khách hào hứng mang theo kỷ niệm. Tranh được đặt lên post card, đặt lên sổ, đặt lên lịch (và rẻ thôi) cho các em học sinh, sinh viên vui vẻ tặng nhau những tâm tư ý nhị… Khuôn tranh được khắc dương bản để khách có thể mua về, vừa như tranh vừa như một “hiện vật” của làng nghề. Tranh Đông Hồ nay được phổ biến ở một thị trường khác, hẹp hơn nhưng nhiều hứa hẹn. Đó là thị trường những sản phẩm văn hoá dân gian phục vụ cho khách du lịch. Những năm gần đây, làng Hồ đã là điểm đến của nhiều đoàn du khách.
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vẫn được thấy như hiện nay là do những cố gắng kiên trì của các thế hệ nghệ nhân. Họ đã và đang giữ vai trò “chủ lực” trong việc bảo vệ, hồi sinh và phát huy giá trị dòng tranh dân gian này. Các gia đình nghệ nhân cố gắng truyền lại nghề cho con, cháu. Họ cũng cố gắng đa dạng hóa các sản phẩm và tìm cách quảng bá giới thiệu sản phẩm của mình. Nhưng để những nỗ lực đó không còn lẻ loi đang đòi hỏi cần có sự bảo vệ và hỗ trợ khẩn cấp từ các cấp, các ngành, cả trong nước và quốc tế. Hơn thế nữa, mỗi bức tranh Đông Hồ không chỉ là một sản phẩm hàng hóa cần bán để thu lãi sau khi trừ đi những chi phí in tranh mà còn phải coi đó là một di sản văn hóa của dân tộc, mang những thông điệp của văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế và truyền lại cho đời sau. Mỗi nghệ nhân cũng cần được coi như một “tài sản” của nền văn hóa dân tộc, cần được trân trọng để có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và yêu cầu truyền thụ lại tinh hoa cho các thế hệ kế tiếp trong một tầm nhìn dài hạn.