Trang phục truyền thống M’nông
Cùng với các dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên, đồng bào M’nông có bản sắc văn hoa độc đáo, trong đó nổi lên là những bộ trang phục truyền thống.
Nhất là trong lễ hội, cách trang phục theo quy định, từng thứ bậc trong làng: già làng, chủ lễ, thầy cúng ăn mặc khố hoa, ngực quấn mền thay áo; nhóm đánh chiêng mặc khố hoa, ở trần; người đến dự mặc khố (đối với nam), mặc váy áo (đối với nữ); còn những phụ nữ tham gia lễ hội mặc váy hoa, áo cộc tay để tiện đánh chiêng, múa hát, tiếp khách… Tất cả cộng đồng ai cũng mặc đẹp khiến cho lễ hội đậm đà màu sắc.
Dàn chiêng truyền thống của bà con M’nông.
Đồng bào M’nông có nền văn hóa truyền thống vô cùng độc đáo với các nghi lễ, lễ hội, truyện cổ, lời nói vần, luật tục…và những nghề thủ công truyền thống, như đan lát mây tre, nghề dựng nhà, nghề mộc... Trong đó, nghề thêu dệt sợi, nhuộm hoa văn trên nền vải rất tinh tế, thể hiện sự cần cù, khéo léo, sáng tạo của phụ nữ M’nông.
Việc tự dệt vải, may trang phục cho các thành viên trong gia đình là một việc rất quan trọng đối với phụ nhữ M’nông. Trước kia, bà con còn sáng tạo ra áo vỏ cây, chống lại giá rét khi đi trong rừng rậm… Người xưa thường tách phần vỏ cây chặt từng khúc ngắn, lột hết lớp cứng bên ngoài rồi mang luộc chín, đập mềm, phơi khô, sau đó tước thành sợi nhỏ, đưa vào khung dệt. Hai loại áo phổ biến nhất là áo may hai bên hông rồi khoét lỗ chính giữa, chui đầu vào (không có tay), loại này thường dùng cây lớn, tạo được khổ vỏ rộng. Và áo khoét lỗ, chui đầu nhưng do khổ vỏ cây hẹp nên dùng dây rừng se lại buộc hai bên hông.
Sau này, không còn làm “vải” từ vỏ cây nữa, những thiết kế áo của bà con vẫn theo dáng ấy, như vậy là vẫn giữ được bản sắc truyền thống văn hóa trong trang phục.
Một loại vải nữa cũng rất đặc biệt. Đó là bà con con dùng bông của quả blang (bông gòn rừng). Bông được phơi khô, bỏ hạt, đập kỹ, rồi bật cho sợi bông tơi ra, sau đó cán bông thành sợi. Qua nhiều lần se bông sẽ thành sợi thô, cuộn lại thành chỉ rồi cuốn lại thành từng lọn, mang nhuộm trong một chiếc nồi gốm để tạo ra thành các màu cần thiết. Màu sắc thổ cẩm truyền thống của người M’nông gồm các màu chủ đạo là đen, đỏ, vàng, tím, trắng, xanh... Người ta thường chọn nền vải là màu đen, tượng trưng cho màu đất. Màu đỏ tượng trưng cho sự dũng cảm, sức mạnh siêu nhiên, khát vọng tình yêu. Màu xanh tượng trưng cho màu của trời, sông núi. màu vàng tượng trưng cho sự hài hòa, mơ ước, khát vọng trong cuộc sống.
Bé gái M’nông.
Sản phẩm thổ cẩm của người M’nông như mền đắp, khố, váy, túi, áo… không chỉ phục vụ nhu cầu các thành viên trong gia đình, mà còn là tài sản để trao đổi hàng hóa và cũng là của hồi môn cho con gái khi về nhà chồng. Vì vậy, các cô gái người M’nông trước khi lấy chồng đều được bà, mẹ truyền dạy dệt thổ cẩm.
Ngoài ra còn phải kể đến một loại trang phục rất cổ xưa là tấm choàng mà người M’nông gọi là “su nhắp”. Đó là một tấm vải có khổ rộng tối đa khoảng 90 cm với các dải trang trí hoa văn được bố trí chạy dài theo chiều dọc sợi (vuông góc với khổ vải). Từ thảm vải dài đã dệt, người ta cắt lấy hai đoạn mỗi đoạn dài khoảng 2 m rồi can hai tấm liền vào với nhau, còn hai đầu thì khâu viền để được một tấm đắp có quy mô khoảng 2 m x 1,8 m. Đây là một vật dụng đa năng, dùng để làm chăn hoặc choàng lên người trong những ngày giá lạnh và không phân biệt giới tính hay lứa tuổi.
Riêng với phụ nữ M’nông, trang phục thường là tấm váy ngắn, ống tay áo ngắn vừa mang dáng vẻ dịu dàng, lại vừa phô được vẻ đẹp khỏe khoắn, nhanh nhẹn. Tấm vải dài khoảng 3 m, sau khi bớt lại một phần làm đôi ống tay, phần còn lại dài khoảng 1,5 m để làm thân áo được gấp làm đôi theo chiều dọc sao cho thân sau dài hơn thân trước khoảng 15 cm. Tại chỗ gập đôi, được khoét một lỗ lượn tròn nghiêng về thân trước để chui đầu. Từ cạnh lỗ thủng này là chính giữa thân trước xẻ xuống khoảng 12 cm để mở rộng cho đủ chỗ chui đầu. Từ hai mép đường xẻ dọc này, người ta đính sít vào nhau thành một mảng sợi bện màu đỏ chói. Mảng sợi bện màu đỏ này được quan niệm là cánh chim đại bàng, chiếm lĩnh ở ngay phần ngực, rất đẹp cả về tạo hình lẫn màu sắc.
Trang phục truyền thống cách điệu.
Cùng với trang phục, bà con M’nông còn rất chú ý tới đồ trang sức. Với phụ nữ, nữ trang đeo tai gồm có: Bông đeo tai bằng gỗ, bông đeo tai bằng ống tre nứa cắt ngắn, bông đeo tai làm bằng bạc hoặc bằng chì, hoa tai thắt bằng đồng hoặc vàng. Vòng đeo tai khá rộng, phía dưới treo một đôi hoa bằng đồng hoặc bằng vàng bạc và dưới cùng treo vài chiếc lục lạc nhỏ. Khi đầu cử động, nhạc lục lạc vang theo.
Đặc biệt nhất là hai ống chân của phụ nữ đeo hai chiếc vòng xoắn quấn bằng dây đồng từ mắc cá lên đến đầu gối, phía trên có đeo thêm mỗi bên một chiếc vòng. Khi đi chiếc vòng chạm vào nhau kêu thành tiếng nhạc leng keng. Ngón tay của phụ nữ thường đeo đôi ba chiếc nhẫn bằng bạc, bằng đồng hoặc bằng sừng trâu.
Tới nay, cuộc sống thay đổi, trang phục truyền thống của bà con M’nông đã không thường xuyên sử dụng nhưng trong ngày lễ tết, ngày hội thì vẫn không thể thiếu. Đáng chú ý, từ vẻ đẹp trang phục của người M’nông mà những nhà thiết kế trang phục sau này đã “mượn ý tưởng” để làm nên những bộ trang phục sử dụng rộng rãi. Đặc biệt là cách phối màu, dùng những màu mạnh và mảng khối đã khiến cho trang phục vừa giữ được cốt cách truyền thống lại vừa hiện đại.