Lòng thương dân của Tổng đốc Hoàng Diệu

Trần Văn Mỹ 27/04/2020 19:02

Hoàng Diệu, tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Sửu (5/3/1829) tại làng Xuân Đài, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Lòng thương dân của Tổng đốc Hoàng Diệu

Chân dung Tổng đốc Hoàng Diệu. (Tranh tư liệu).

Theo phả, họ Hoàng làng Xuân Đài gốc từ làng Huệ Trì (xã Lộc Trì, huyện Nam sách, tỉnh Hải Dương). Ông khởi tổ, gốc họ Mạc di cư vào Quảng Nam, ban đầu ở làng Đông Bàn, sau một trận lụt lớn, chuyển về làng Xuân Đài, đến Hoàng Diệu là đời thứ bảy. Hiện nay, tại nhà thờ họ Hoàng ở Xuân Đài còn giữ câu đối chữ Hán. Lời diễn Nôm của Hoàng Diệu:

Huệ Trì xứ vốn là cõi Bắc, do tổ tiên cội gốc vững bền,
Xuân Đài châu nay thuộc miền Nam, truyền con cháu giống dòng hưng thịnh.

Thân sinh Hoàng Diệu là Hoàng Văn Cự làm hương chức, thân mẫu là Phạm Thị Khuê tần tảo làm ruộng chăn tằm. Hai cụ sinh được 11 người con, 8 trai, 3 gái, 6 người đỗ đạt: một Phó bảng, ba cử nhân và hai tú tài.

Khoa thi hương tại Thừa Thiên năm 1848, Hoàng Kim Giám 23 tuổi và Hoàng Kim Tích (Hoàng Diệu) 20 tuổi cùng đỗ Cử nhân. Bấy giờ Chánh chủ khảo là Tham tri bộ binh Hoàng Tế Mỹ và Phó chủ khảo Biện lý bộ Lễ Phan Huy Thực thấy văn bài của hai anh em có chỗ giống nhau nên ngờ vực. Được tấu trình, Tự Đức cho phúc hạch riêng hai anh em, mỗi người một phòng ở Tả vu và Hữu vu điện Cần Chánh. Sau khi duyệt bài thi, Tự Đức ngự phê: “Sự hành văn là việc chung, cốt để chọn nhân tài, anh em đỗ đồng khoa là việc tốt đẹp”.

Năm 1853, 25 tuổi Hoàng Diệu dự thi Đình, đỗ Phó bảng. Năm 1854, Hoàng Diệu được bổ Tri phủ Tuy Phước, Bình Định. Do nha môn nhầm lẫn án từ, ông bị giáng chức làm Tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên.

Tháng 9 năm Giáp Tý (1864), Đặng Huy Trứ đang làm Bố chánh Quảng Nam, trong một tờ sớ tiến cử người hiền tài, viết: “Hoàng Diệu, nguyên Tri huyện Hương Trà, Phó bảng xuất thân là người cương trực, mẫn cán, tại phủ huyện cai trị không nhiễu dân, được sở dân tin yêu, khi ra đi mọi người đều nhớ. Những người như vậy không có nhiều. Nếu được nhà vua bỏ qua lỗi lầm mà đem dùng thì ở huyện là một tri huyện hiền tài”. Ngay sau đó, Hoàng Diệu được phục chức tri huyện.

Một lần nữa, vào năm 1874, trong khi giữ chức Tham tri bộ Lại, kiêm quản Đô sát viện, do mắc lỗi ông lại bị giáng hai cấp lưu, nhưng ít lâu sau lại được phục chức.

Năm 1878, Quảng Nam xảy lụt lớn, Tự Đức biết ông là người chính trực, am hiểu dân tình, phong tục đất Quảng, trao cho ông chức Khâm sai đại thần cầm cờ tiết có bốn chữ “tiện nghi hành sự”, lo việc chẩn tế an dân.

Bấy giờ ở làng Giáo Ái có một cường hào tên là Hương Phi, lợi dụng tình hình nhiễu nhương, cho tay chân cướp bóc dân lành. Dân sợ báo thù, không dám tố giác. Hoàng Diệu mở cuộc điều tra, nắm bằng cứ xác thực, rồi bàn với quan tỉnh gọi Hương Phi đến xét hỏi. Hoàng Diệu cho niêm yết tội trạng của y và kết án xử trảm. Từ đó, dân trong vùng yên tâm làm ăn, bọn trộm cướp cũng không dám hoành hành.

Cũng trong thời gian này, Hoàng Diệu phát giác tại các địa phương trong tỉnh có một người đỗ Cử nhân khoa Bính Tý (1876) có tội vì đã nhờ người khác làm bài và hai người mang danh tú tài nhưng không có thực học, cả ba đều bị truất bằng và phạt tội. Thêm nữa, hai ông tú tài, nhân nạn đói, chuyên mua rẻ bán đắt làm giàu nên dân chúng oán ghét. Hoàng Diệu tìm hiểu kỹ càng, cùng các nhân sĩ trong vùng kiểm tra học vấn. Nhận được tấu trình của ông, vua Tự Đức cho sát hạch riêng những người ấy rồi mới xét xử cho thấu lý đạt tình.

Cũng năm 1878, Hoàng Diệu nhận chức Tham tri bộ Lại, năm 1879 thăng Thượng thư bộ Binh. Đầu năm 1880, Hoàng Diệu nhận chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội-Ninh Bình) kiêm trông coi việc thương chính. Trước khi ra Bắc nhậm chức, ông được phép về quê thăm mẹ già đã 80 tuổi. Vào dịp ấy, Tự Đức ban thưởng sâm, quế, lụa và bạc, Hoàng Diệu dâng biểu tạ ơn, có câu: “Thần bận việc nước nên chưa dám lo việc nhà. Xin hết lòng làm việc có lợi cho nước…”.

Vừa đến Hà Nội, ông cho sửa lại vách thành, đắp cao thêm 1 mét rưỡi. Các cửa thành được làm lại bằng gỗ chắc chắn… Cùng với chuẩn bị phòng thủ, ông còn lo việc ổn định trật tự trong dân. Bấy giờ ở vùng cửa Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu bây giờ, dân tứ chiếng tụ tập, vòi vĩnh, nhũng nhiễu dân trong ma chay, cưới xin, vòi tiền, cướp bóc trên sông. Ông nói rằng, để xảy tình trạng trên là do hương lý trong vùng bất lực, có khi còn vào hùa dung túng cho bọn vô lại. Tổng đốc Hoàng Diệu và Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ban tờ sức tới các nha môn, nói rõ các tệ nạn cần được ngăn cấm với những quy định cụ thể. Nếu các việc còn tái diễn thì các hương lý sẽ bị trừng trị. Lại cho phép quyên tiền khắc tờ sức lên bia đá, đặt trước nha môn và đường cái quan để mọi người cùng biết. Bia khắc xong ngày 12 tháng 4 năm Tự Đức thứ 34 (1881). Hiện nay, ở trong vòm cổng Ô Quan Chưởng còn tấm bia đá “Thân cấm khu tệ” (Lệnh cấm trừ tệ) cỡ 105 X 63cm khắc 720 chữ Hán, văn do Hoàng Diệu soạn.

Do làm được nhiều việc lợi dân, ông được vua khen: “Chăm lo cho dân Bắc Hà, ngoài Hoàng Diệu ra, không ai hơn”. Dân thời ấy truyền tụng, ông làm quan to mà sống thanh bạch, trong nhà không có tiền bạc. Với ông, không ai dám đến của công để kêu xin việc tư. Hoàng Diệu có bà mẹ hiền thục, lúc làm quan ông gửi về biếu mẹ một vóc lụa, bà không nhận, gửi trả lại cho con và kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi để bảo con rằng đừng nhận quà cáp của dân.

Hoàng Diệu sống thanh liêm, kiệm ước, suốt đời vì dân trừ tệ. Hơn thế, trong trận chiến giữ thành Hà Nội, ông còn là vị tổng đốc anh hùng.

Sáng ngày 25/4/1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi ông phải giao thành cho chúng. Đến 9 giờ 15 quân Pháp nổ súng. Lúc đó, Hoàng Diệu đang ốm vẫn cùng Tuần phủ Hoàng Hữu xứng xông lên mặt thành đánh giặc. Trận chiến kéo dài đến 11 giờ trưa thì kho thuốc súng trong thành nổ tung làm quân sĩ hoang mang. Thừa cơ, quân Pháp cho đánh cửa thành phía Tây và phía Bắc, giặc ùa vào bên trong thành. Trước tình thế ấy, Hoàng Diệu quay về dinh, mặc triều phục, vào hành cung bái vọng và khóc: “Sức thần đã hết rồi”. Tại đây, ông viết Di biểu gửi vua Tự Đức: “Thần là một kẻ thư sinh biết đâu việc binh mà bệ hạ giao cho chức vụ quá trọng. Làm sao tin được lòng giặc nên thần lo sửa soạn đề phòng. Việc chưa xong thì quân Pháp kéo đến… Một mình thề với Long Thành, nguyện theo Nguyễn Tri Phương nơi suối vàng vậy”. Sau đó, để bảo toàn khí tiết, ông đến cây đa trước cửa Võ Miếu thắt cổ, đúng vào giờ Ngọ ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (25/4/1882).

Được tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, nhân dân Hà Nội vô cùng thương tiếc. Ngày hôm sau dân tập trung rước quan tài ông an táng tại khu vườn dinh Đốc học (ở phố Trần Quý Cáp bây giờ). Trong lễ tang, các sĩ phu Hà Nội có lời điếu:

Cô thành chống giữ một mình thôi
Khảng khái như ông được mấy người
Cựu lục nghìn năm gương tiết rọi
Cô thần một chết tấm trung phơi
(…)
Nghìn thủa Nùng Sơn nêu chính khí
Anh hùng đến thế lệ cùng rơi

Còn Tự Đức, ngay sau khi nhận được Di biểu của Hoàng Diệu, vua đã ra chỉ dụ khen ngợi và sai các quan đầu tỉnh Hà Nội, Hải Dương và Nam Định lo việc chuyển mộ ông về quê Quảng Nam vào mùa thu năm đó. Tự Đức sai quan đầu tỉnh Quảng Nam ban một tuần tế, lại cấp 1.000 quan tiền nuôi mẹ Hoàng Diệu. Ca ngơi khí tiết của Tổng đốc Hoàng Diệu, một nhà Nho ở Hà Nội đã soạn bài Hà Thành chính khí ca. Ông còn được thờ tại miếu Trung Liệt bên gò Đống Đa. Đền có đôi câu đối ca ngợi công đức Hoàng Diệu:

Kia thành quách, kia non sông trăm trận phong trần còn thước đất
Là trời cao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Ngày 20/2/2003, thành phố Hà Nội đã lập đền thờ Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu trên vọng lâu Cửa Bắc. Tại đây có đặt tượng đồng hai vị Tổng đốc đã dũng cảm đánh Pháp giữ thành năm 1873 và 1882 do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cung tiến. Tại đền có treo bức hoành “Nghĩa liệt anh hùng” và đôi câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu:

Trung vị quốc nghĩa vị dân, lưỡng phiến đan tâm huyền nhật nguyệt
Sinh ư Nam tử ư Bắc, thiên thu chính khí vượng sơn hà.
Nghĩa rằng:
Trung với nước nghĩa với dân, tấm lòng son sáng tựa mặt trời mặt trăng,
Sinh ở Nam mất ở Bắc, khí tiết nghìn năm rạng rỡ nước non này.

Trần Văn Mỹ