Trần Hoàng Tú(Nguồn tham khảo: History Global Times SCMP)•02/05/2020 08:34
Suốt 4 tháng qua, cả thế giới bị virus Corona chủng mới (SARS-CoV-2) tấn công, gây nên đại dịch Covid-19. Hơn một nửa dân số thế giới từng bị phong tỏa (chừng 4 tỷ người). Con số người nhiễm và chết do dịch Covid-19 được thông báo hàng ngày càng cho thấy mức độ khủng khiếp của dịch bệnh. Trong cuộc chiến với kẻ thù vô thanh vô ảnh ấy, người ta trông chờ vào những loại vaccine “thần diệu”, những loại thuốc “tiên” đặc trị. Nhưng, chặng đường phía trước vẫn còn quá dài.
Chưa thấy điểm cuối
Để chống lại đại dịch Covid-19, cả thế giới vào cuộc chạy đua tìm kiếm vaccine. Từ đầu năm 2020 đã có rất nhiều nhà khoa học trên thế giới bắt tay vào nghiên cứu SARS-CoV-2 cũng như tìm cách điều chế vaccine ức chế nó.
Tới nay, dù ánh sáng cuối đường hầm chưa lóe lên nhưng dẫu sao thì người ta cũng đã tạo ra được các nền tảng quan trọng cho việc phát triển vaccine, trong đó có việc xây dựng hệ thống nuôi cấy virus trong phòng thí nghiệm, giải mã bộ gene của virus này và bước đầu đã tìm hiểu được các cấu trúc phân tử của SARS-CoV-2.
Đáng chú ý, Công ty Công nghệ sinh học Moderna sử dụng một đoạn mã di truyền mã hóa cho protein S của virus để gắn kết nó với các hạt nano chất béo rồi tiêm vào cơ thể. Họ mới thử nghiệm lần đầu tiên trên người ngày 16/3 ở Seattle (Mỹ). Trung tâm nghiên cứu của Imperial College London cũng đã thiết kế một loại vaccine tương tự sử dụng RNA (axit ribonucleic) virus này. Còn Công ty Công nghệ sinh học Pennsylvania Inovio đang tạo ra các chuỗi ADN mà họ hi vọng sẽ kích thích phản ứng miễn dịch. Công ty Sanofi đang thử trộn ADN virus với vật liệu di truyền từ một loại virus vô hại khác. Công ty Johnson & Johnson đang thử với virus bị bất hoạt...
Nhưng, con đường nghiên cứu và tạo ra một vaccine hiệu quả thường tốn khá nhiều công sức và thời gian bởi việc phát triển này được chia ra làm 2 giai đoạn chính là tiền lâm sàng và thử nghiệm lâm sàng. Giai đoạn tiền lâm sàng là giai đoạn tìm tòi trong phòng thí nghiệm để tạo ra được một số “ứng viên sáng giá” làm vaccine; sau đó mới tiến hành thử nghiệm trên người (còn gọi là thử nghiệm lâm sàng). Thường thì kết thúc cả 2 giai đoạn hoàn chỉnh vaccine phải mất ít nhất 18 tháng, trước khi nó được thương mại hóa. Nhìn chung, để tạo ra được một vaccine có thể sử dụng được trên người thì phải thỏa mãn 3 điều kiện chính: an toàn, hiệu quả và khả dụng.
Người ta nhận thấy rằng, hóa ra vaccine đã và đang đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp bảo vệ sức khỏe của loài người trước các bệnh tật nguy hiểm gây ra bởi các tác nhân gây bệnh trong môi trường- có nghĩa là vaccine đã đồng hành với sự tồn tại của loài người. Nhìn lại lịch sử, từ khi Edward Jenner thử nghiệm thành công vaccine ngừa đậu mùa vào năm 1796, phương pháp của ông đã trải qua những cải tiến về công nghệ trong suốt 200 năm tiếp theo để cuối cùng dẫn đến việc loại bỏ bệnh đậu mùa một cách gần như hoàn toàn. Đến năm 1885, Louis Pasteur tạo ra sản phẩm vaccine ngừa bệnh dại. Rồi là hàng loạt các vaccine sau đó được tạo ra để giúp cho con người chống chọi lại nhiều bệnh tật hiểm nghèo như bệnh bạch hầu, uốn ván, bệnh than, bệnh tả, bệnh dịch hạch, thương hàn, bệnh lao, và nhiều hơn nữa trong suốt thời gian đến những năm 1930.
Kể từ giữa thế kỷ 20 đến nay là thời điểm phát triển mạnh của các nghiên cứu vaccine với sự hỗ trợ của các phương pháp tiên tiến, trong đó có các loại vaccine ức chế virus nguy hiểm cho con người là bại liệt, sởi, quai bị, HIV, Rubella… và Corona.
Maurice Hilleman, người đã giúp điều chế ra 40 loại vaccine.
SARS-CoV-2: Những tiết lộ tưởng chừng mới nhưng không bất ngờ
Giữa lúc đại dịch Covid-19 bùng phát dữ dội, giới khoa học cho rằng, việc tạo ra vaccine để bảo vệ con người chống lại SAR-CoV-2 sẽ là một giải pháp an toàn nhất, hiệu quả nhất để kiểm soát dịch bệnh (trong khi chưa có thuốc đặc trị).
Trong một bài báo công bố trên trang Nature ngày 26/3, hai nhà khoa học- những người đã lấy các mẫu xét nghiệm từ chợ hải sản ở Vũ Hán (Trung Quốc) là GS Zhang Zhenyong (Trung tâm Y tế công cộng Thượng Hải, đồng thời làm việc tại Đại học Fudun) và GS Edward Holmes (Đại học Sydney (Australia) - cho biết: Trình tự gene của “các mẫu môi trường” có thể là từ bề mặt của các đồ vật ở khu chợ đã được lấy và phân tích phát sinh chủng loại cho thấy chúng có liên hệ rất gần gũi với các virus được lấy mẫu từ các bệnh nhân ban đầu ở Vũ Hán. Tuy nhiên, họ cũng khá cẩn thận khi cho rằng không phải tất cả các trường hợp mắc Covid-19 ban đầu đều có liên hệ với khu chợ này. Có thể câu chuyện dịch bệnh xuất hiện phức tạp hơn nhiều việc phát hiện trường hợp nhiễm bệnh đầu tiên.
Nhưng, GS Robert Garry (Trường Y Đại học Tulane) cho biết trên ABC News ngày 27/3 rằng đó là một hiểu lầm. “Những nghiên cứu của chúng tôi và cả những người khác nữa đã chỉ ra rằng nguồn gốc của virus này có từ trước đó”- GS Garry cho biết; mà theo ông rất có thể nguồn gốc của SARS-CoV-2 là sự tiến hóa từ tự nhiên. Trước đó, vào khoảng cuối tháng 2/2020, một nhóm 7 bác sĩ Vũ Hán đã công bố một bài báo khoa học trên trang Lancet sau khi xem xét một nhóm 41 bệnh nhân là những người đầu tiên được chẩn đoán mắc Covid-19. Họ phát hiện ra rằng bệnh nhân đầu tiên mắc bệnh không hề tiếp xúc với khu chợ kể trên. Bài báo cũng là nghiên cứu đầu tiên đặt ra câu hỏi về kết luận SARS-CoV-2 có nguồn gốc từ chợ hải sản ở Vũ Hán- có nghĩa là họ đã đặt ra một nghi vấn khoa học quan trọng khi xác định nguồn gốc của virus để xác định đúng cách khống chế.
Tương tự, cũng vào thời điểm cuối tháng 2/2020, các nhà nghiên cứu thuộc Vườn Bách thảo nhiệt đới Xishuangbanna (Học viện Khoa học Trung Quốc) đã phân tích dữ liệu gene từ 93 mẫu SARS-CoV-2 và chỉ ra rằng virus này đến từ bên ngoài khu chợ bán hải sản ở Vũ Hán. Nhiều nhà khoa học cũng nhận định với trang Global Times rằng dịch Covid-19 có thể đã phát sinh từ nhiều nơi khác nhau trên toàn cầu. Theo trang SCMP, SARS-CoV-2 có thể đã âm thầm lây lan ở con người trong nhiều năm hoặc thậm chí vài thập niên trước khi bùng phát thành một đại dịch toàn cầu.
Tuy nhiên, mặc dù có những nghi vấn khác nhau song các nhà khoa học cho rằng SAR-CoV-2 mang một biến chủng đặc biệt mà không được tìm thấy trên các vật chủ đã được nghi ngờ từ trước, mà là có thể đã xảy ra trong suốt quá trình lây nhiễm theo những nhóm nhỏ và lặp lại ở con người.
“Như một kết quả của sự thay đổi dần dần trong quá trình tiến hóa qua nhiều năm và có lẽ qua hàng thập kỷ, SARS-CoV-2 cuối cùng đã có khả năng lây nhiễm từ người sang người và gây nên một dịch bệnh nghiêm trọng đe dọa đến mạng sống của chúng ta”- TS Francis Collins, Giám đốc Viện Sức khỏe quốc gia Mỹ nêu ý kiến.
Như vậy, những tiết lộ từ giới khoa học về SARS-CoV-2 tưởng “mới” nhưng lại không bất ngờ.
June Almeida, người đặt nền móng cho việc nghiên cứu virus Corona.
Điều ít biết về người tiên phong nhận dạng virus Corona
Tới nay, người ta khẳng định rằng bà June Almeida chính là người “đặt nền móng” cho việc nghiên cứu virus Corona, khi phát hiện của bà được tiến hành tại phòng thí nghiệm thuộc Bệnh viện St Thomas (London, Anh) vào đầu thập niên 1960.
Bà June Almeida sinh năm 1930, được coi là “nhà virus học” hàng đầu tuy rằng con đường học vấn của bà không dài. Sinh ra trong một gia đình bình dân tại thành phố Glasgow, Almeida đã rời trường học từ năm 16 tuổi. Năm 1954, Almeida kết hôn với Enriques Almeida- một nghệ sĩ người Venezuela. Cặp vợ chồng và cô con gái nhỏ của họ chuyển đến Toronto, Canada. Cũng thật tình cờ bà vào làm việc tại Viện ung thư Ontario và tại đây bà đã phát triển các kỹ năng nổi bật về nghiên cứu virus của mình nhờ một chiếc kính hiển vi điện tử: Almeida chính là người đưa ra phương pháp hình dung ra virus tốt hơn bằng cách sử dụng các kháng thể để tập hợp chúng.
Tài năng của bà được công nhận. Cho tới năm 1964, Almeida được mời trở lại quê nhà làm việc tại Trường Y khoa Bệnh viện St Thomas ở London. Điều thú vị đây cũng chính là bệnh viện đã điều trị khỏi cho Thủ tướng Anh Boris Johnson khi ông mắc Covid-19 (tháng 4/2020).
Khi trở về nước, Almeida hợp tác với TS David Tyrrell- người điều hành chương trình nghiên cứu về bệnh cảm lạnh thông thường ở Salisbury, Wiltshire. Tại đây, bà đã nghiên cứu virus lạ được biết đến với tên gọi B814 (từ dịch mũi của một học sinh trường nội trú ở Surrey năm 1960).
Tại phòng thí nghiệm, bà Almeida đã quan sát được các virus trong mẫu dịch, được bà mô tả là “giống như virus cúm nhưng không giống hoàn toàn”. Những kết luận của bà lần đầu tiên nhận diện được thứ siêu vi trùng sau đó được gọi tên là virus Corona. Năm 1965, phát hiện mới về chủng virus được ký hiệu là B814 được đăng trên Tạp chí Y học Anh với lời dẫn “Chính TS Tyrrell và bà Almeida, cùng với GS Tony Waterson, người phụ trách tại Bệnh viện St Thomas đã đặt tên cho B814 là Coronavirus vì hình ảnh của nó giống như chiếc vương miện hoặc quầng sáng bao quanh”.
Bà Almeida sau đó làm việc tại Trường Y sau Đại học ở London, nơi bà được trao bằng tiến sĩ. Bà qua đời năm 2007, ở tuổi 77.
Mỹ đã thử nghiệm vaccine Covid-19 trên nhóm người tình nguyện đầu tiên.
Người đón đầu đại dịch bằng vaccine
Vào ngày 17/4/1957, nhà vi sinh học Maurice Hilleman nhận ra một đại dịch từ Hong Kong (Trung Quốc) đang trên đường đến Mỹ.
Trong lúc đọc tờ New York Times, ông phát hiện ra một chi tiết: “Những người phụ nữ cõng theo những đứa trẻ mắt đờ đẫn dính chặt trên lưng mẹ”. Bằng sự nhạy cảm nghề nghiệp, Hilleman cho rằng đó là dấu hiệu của dịch cúm.
Chỉ 1 ngày sau khi đọc mẩu tin đó, Hilleman đã gửi điện tín đến Phòng thí nghiệm y tế quân đội Mỹ ở Zama (Nhật Bản), yêu cầu nhân viên điều tra những gì đang diễn ra ở Hong Kong. Sau đó, họ xác định một thành viên Hải quân Mỹ đã nhiễm bệnh ở Hong Kong, và gửi mẫu nước bọt của người này về Mỹ để Hilleman có thể nghiên cứu virus gây dịch.
Là trưởng khoa về các bệnh đường hô hấp tại Viện Nghiên cứu quân đội Walter Reed ở Thủ đô Washington, TS Hilleman có điều kiện tiếp cận với một số lượng lớn huyết thanh thu được từ những người ở nhiều độ tuổi khác nhau trong nhiều năm và nhiều thập kỷ trước. Ông từng nhấn mạnh tới yếu tố “trôi dạt giữa các mùa” từ đó đưa tới nhu cầu tiêm phòng cúm hàng năm. Đi xa hơn, từ yếu tố “trôi dạt”, Hilleman còn đưa ra kết luận “biến chủng” của virus khi khẳng định loại virus mới ông “đang có trong tay” là một chủng cúm hoàn toàn khác do đã biến dạng.
Cũng từ đó, ông đã thuyết phục các công ty sản xuất vaccine phòng loại cúm mới để sẵn sàng sử dụng.
Khi chủng cúm mới tấn công Mỹ vào tháng 9/1957, đúng như Hilleman dự đoán, quốc gia này đã sẵn sàng với một loại vaccine virus cúm mới, được đặt tên là “cúm châu Á”. Trước đó, virus cúm mới này cũng đã “kịp” giết chết khoảng 70.000 người Mỹ và từ 1 đến 4 triệu người trên toàn thế giới.
Nói như bà Alexandra Lord- Chủ tịch bộ phận y học và khoa học tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Smithsonian ở Washington, D.C thì: “Rất khó để nói rằng nhiều sinh mạng đã được cứu, bởi vì chúng ta đâu biết điều gì đã xảy ra nếu không có vaccine. Vì vậy, tôi nghĩ rằng Hilleman đã bẻ hướng thật kịch tính một đại dịch”.
Trước khi qua đời vào năm 2005, nhà vi sinh học Maurice Hilleman đã giúp phát triển 40 loại vaccine, trong đó có nhiều loại cho các bệnh ở trẻ em. Ông được ghi nhận là đã cứu nhiều mạng sống hơn bất kỳ nhà khoa học y tế nào khác trong thế kỷ 20. TS Robert Gallo- Giám đốc và nhà đồng sáng lập Viện Virus học ở người (IHV) đã mô tả Hilleman là “nhà vaccine học thành công nhất trong lịch sử”.
Chuyện thần kỳ: 19 ngày khống chế đại dịch
Khống chế một dịch bệnh, nhất là khi nó là một đại dịch là điều vô cùng gian nan, thời gian kéo dài và cũng là kéo dài khủng hoảng. Lịch sử ghi nhận nhiều dịch bệnh kéo dài từ năm này sang năm khác, có khi diễn biến âm thầm hàng vài thập kỷ. Chính vì thế, việc chỉ mất hơn 2 tuần để ngăn chặn loại virus chết người thoát ra khỏi Thủ đô Maxcơva và lan ra toàn Liên Xô (cũ) trước đây, cho đến nay vẫn được cho là chuyện thần kỳ.
Đậu mùa là một trong những dịch bệnh chết chóc nhất mà loài người từng biết. Vào thế kỷ thứ 8, bệnh đậu mùa đã giết chết 30% dân số Nhật Bản và vào thế kỷ 16, hàng triệu người Mỹ bản địa đã thiệt mạng sau khi nhiễm virus đậu mùa.
Ngày 23/12/1959, một người đàn ông bước xuống khỏi một chiếc máy bay từ Delhi (Ấn Độ) vừa hạ cánh tại Maxcơva.Ông ta không biết mình đang mang theo một mối nguy hiểm lớn. Đó là nghệ sĩ Liên Xô Alexei Kokorekin (bệnh nhân số O)- người không thể tưởng tượng rằng chính mình đã mang theo bệnh đậu mùa từ Ấn Độ về nước.
Khi xuống sân bay, ông Kokorekin bị cảm lạnh nhẹ. Ngay tối hôm đó, thân nhiệt của Kokorekin tăng vọt, ho dữ dội và đau khắp cơ thể. Ngày hôm sau ông đi khám và được chẩn đoán mắc cúm. Tuy nhiên, loại thuốc mà Kokorekin được kê đơn không giúp ích được gì. Bệnh nhân bị nổi mẩn đỏ khắp người, rồi lại được bác chỉ chẩn đoán là bị dị ứng.
Lúc bấy giờ, một nữ thực tập sinh trẻ có hỏi Kokorekin rằng, ông có biết mình bị lây bệnh từ đâu không? Sau khi được biết ông trở về từ Ấn Độ thì cô đã đưa ra ý kiến những triệu chứng của Kokorekin có thể là do bệnh đậu mùa. Nghe nói, các bác sĩ lành nghề trong bệnh viên đã bật cười, chế nhạo cô.
Vào ngày 29/12, sau 5 ngày nằm cùng phòng bệnh với nhiều bệnh nhân cúm khác, Kokorekin qua đời khi mới 53 tuổi. Cái chết của ông bị lãng quên vì lúc ấy năm mới đã tới, ai nấy cùng bận rộn.
Nhưng chỉ 2 tuần sau, một số bệnh nhân khác trong bệnh viện đã xuất hiện những triệu chứng tương tự: sốt, ho và phát ban. Các chuyên gia của Viện Nghiên cứu vaccine đã được mời đến. Và kết luận của họ là một cú sốc: Maxcơva đã bùng phát một ổ dịch đậu mùa.
Lập tức, ngày 15/1/1959, tin tức về dịch đậu mùa được báo cáo lên lãnh đạo đất nước và cũng ngay lập tức mọi nguồn lực y tế, cảnh sát và cả mạng lưới KGB (tình báo Liên Xô) ở Maxcơva được huy động: Cuộc tìm kiếm những người mang mầm bệnh nguy hiểm tiềm tàng diễn ra bất kể ngày đêm. Tất cả những người mà Kokorekin đã gặp và nói chuyện, những người thân mà ông đã liên lạc, những người nhận được quà tặng của ông từ Ấn Độ đều bị cách ly. 150 sinh viên trường đại học nơi con gái của người xấu số đang ngồi học trong lớp đã được đưa thẳng đến bệnh viện.
Nguồn dự trữ nhà nước khẩn cấp, vốn dành cho tình huống chiến tranh, đã được phép đưa vào sử dụng.
Từ các mối liên hệ chính F1, cuộc tìm kiếm đã mở rộng đến các liên hệ F2, F3… cho đến khi toàn bộ chuỗi liên quan được thiết lập. Tất cả những người trong chuỗi được lệnh rời khỏi các chuyến tàu, những chuyến bay chở những người có nguy cơ nhiễm bệnh cũng được lệnh quay đầu trở lại. Tổng cộng có 9.342 người đã được cách ly bắt buộc.
Lẽ dĩ nhiên Bệnh viện Botkin- nơi “bệnh nhân số 0” trải qua những ngày cuối đời, lập tức bị phong tỏa.
Một biện pháp quyết định trong việc ngăn chặn sự lây lan của bệnh đậu mùa là tiêm vaccine mở rộng cho tất cả cư dân của Vùng Thủ đô Maxcơva và thành phố Maxcơva, cả người lớn, trẻ em, thậm chí cả những người sắp chết. Chỉ trong vòng một tuần, hơn 9,5 triệu người đã được tiêm phòng - một kết quả chưa từng có trong lịch sử.
Cuối cùng tổng cộng, 45 người ở Maxcơva được chẩn đoán mắc bệnh đậu mùa, 3 người trong số họ đã tử vong. Đến ngày 3/2, ổ dịch được dập tắt, chỉ trong vòng 19 ngày. Đó được coi là điều thần kỳ, nhất là khi người ta “quan sát” những gì đang diễn ra ngày hôm nay với đại dịch Covid-19.
Lời cảnh báo và cái chết của bác sĩ Lý
Bác sĩ Lý Văn Lượng (Trung Quốc) là người đầu tiên cảnh báo về chủng mới virus Corona và rồi chính ông cũng đã qua đời vì dịch bệnh này, khi mới 34 tuổi.
Làm việc tại Bệnh viện trung ương Vũ Hán, ngày 30/12/2019 bác sĩ Lý Văn Lượng đã lên tiếng cảnh báo về dịch Corona, nhưng đã bị cảnh sát địa phương yêu cầu dừng việc “phát tán những bình luận sai lệch”. Ông là bác sĩ nhãn khoa, đã đăng câu chuyện của chính mình lên Weibo từ giường bệnh một tháng sau ông gửi đi cảnh báo đầu tiên về virus corona. Bác sĩ Lý đã bày tỏ quan ngại về 7 trường hợp nhiễm virus mà ông cho là giống SARS - loại virus dẫn đến dịch bệnh toàn cầu năm 2003. Trên trang Weibo cá nhân, bác sĩ Lý cho biết, vào hôm 10/1 ông bắt đầu ho, ngày hôm sau ông bị sốt và hai ngày sau ông phải nằm viện. Ông được chẩn đoán nhiễm SARS-CoV-2 vào ngày 30/1/2020.
4 ngày sau khi bác sĩ Lý cảnh báo, ông nhận được lệnh triệu tập đến Văn phòng Công an và bị buộc phải ký vào một lá thư. Trong thư, ông bị buộc tội “đưa ra những bình luận sai lệch” làm xáo trộn nghiêm trọng trật tự xã hội “. Ông cũng là 1 trong 8 người bị cảnh sát điều tra vì “tung tin đồn”.
Cuối cùng thì tử thần cũng đến. Truyền thông Trung Quốc đưa tin: ‘’Chúng tôi vô cùng thương tiếc cái chết của bác sĩ Vũ Hán Lý Văn Lượng, người không may bị nhiễm Coronavirus trong khi chiến đấu với dịch bệnh. Sau tất cả nỗ lực cứu chữa, ông đã qua đời vào 2h58’, ngày 7/2/2020, tại Bệnh viện trung ương Vũ Hán.
Ngày 19/3, Ủy ban Giám sát quốc gia Trung Quốc (NSC) đưa phán quyết rằng quyết định khiển trách bác sĩ Lý là “bất thường” và “không đúng đắn”. Vào lúc 10h sáng thứ bảy, ngày 4/4 (giờ địa phương), cả Trung Quốc mặc niệm 3 phút để tôn vinh tất cả các liệt sĩ đã chết trong cuộc chiến với virus corona, trong đó có bác sĩ Lý Văn Lượng- theo Tân Hoa xã.
Trần Hoàng Tú(Nguồn tham khảo: History Global Times SCMP)