Đào Sư Tích: Ông trạng tam nguyên

Từ Khôi 20/08/2020 14:00

Trạng nguyên Đào Sư Tích (1348-1396), người làng Song Khê (nay thuộc TP Bắc Giang). Khi còn nhỏ, ông theo cha là Tiến sĩ Đào Toàn Bân về phủ Thiên Trường (Nam Định). Sau khi đỗ trạng nguyên, ông làm quan. Từ quan được vài năm, ông vẫn bị triều đình bắt phải đi sứ. Nhà Minh đã sát hại ông…

Cha dạy con đỗ trạng nguyên

Trong lịch sử khoa cử phong kiến, rất ít người đoạt danh vị Tam nguyên. Rồi trong các vị đạt danh hiệu Tam nguyên, không phải ai cũng là Trạng nguyên. Thế nên, Đào Sư Tích, Phạm Đôn Lễ (thời Lê sơ) và Vũ Dương (Lê sơ) là những người cực xuất chúng.

Đề bài văn sách thi đình năm Giáp Dần, niên hiệu Long Khánh thứ 2 (1374) do vua Trần Duệ Tông (1337-1377) ra thật hóc búa. Nội dung nói về việc tìm và dùng người tài của mình. Cuối đề là lời lẽ thống thiết: “Sĩ đại phu hãy trình bày những điều trọng yếu của việc làm chắc chắn, xét đoán phân minh, ý chí thành thực để chỉ những chỗ trẫm chưa làm được, để hưng khởi được hiệu quả trong việc dùng người. Đấy là điều mà Trẫm trông mong ở các bậc sĩ đại phu”.

Trong bài thi, Đào Sư Tích đã phân tích rất cặn kẽ và không ngại “vua phật ý”. Bài thi có đoạn: “Thần nghe: Triều đình là gốc của thiên hạ, vị nhân quân (chỉ bậc Quân Vương) là gốc của triều đình, nhưng cái “tâm” lại là gốc của nhân quân. Nhân quân có khả năng “chính tâm” thì mới “chính” được triều đình. “Chính” được triều đình là để “chính” bách quan. Trăm quan đã “chính” thì chẳng có ai mà dám chẳng xuất phát từ sự chính trực của lòng mình với quân thượng… Chỉ cần giữ nghiêm ngặt trong khi chọn con người mẫu mực, khắc phục những điều nhỏ mọn của họ và dùng họ không có chỗ nào mà không xứng đáng với tài năng, trọng bậc đại thần và thể lòng các quần thần mà đối xử với họ, thì không ai không hết lòng. Cái mà trong lời thánh sách bảo hãy trình bày điều trọng yếu của “hành đốc”, “thẩm minh”, “chí thành” hẳn là ở đấy…”. Hoặc: “Thần nghe, các bậc tiên Nho nói: Những điều trọng yếu trong việc tu nhân của vị nhân quân có ba điều: Nhân, Minh, Võ. Vị vả lấy cái thân của một người ở địa vị đứng trên trăm họ, há đâu chỉ có khả năng thuộc về trí lực? Cái mà được trăm họ trông cậy vào để làm kỷ cương then chốt là chỉ có sự vận dụng bản thân mà thôi. Nhưng tu thân, chưa đạt đến chỗ mấu chốt, thì cái gọi là “Nhân” ấy hoặc không có khả năng chăm nuôi trăm họ, hòa mục vạn bang, mà cái “Nhân” đó chẳng qua chỉ ậm ừ như kiểu mẹ chồng đối với nàng dâu. Cái gọi là “Minh” ấy hoặc không có khả năng xét người hay dở, phân biệt đúng sai mà cái “Minh” đó hoặc chỉ ở chỗ dò xét mà thôi. Cái gọi là “Võ” ấy hoặc không có khả năng cương nghị quả đoán, mà cái “Võ” ấy hoặc đến chỗ cường bạo ngang ngược cũng nên…”.

Được biết thầy học của Trạng nguyên Đào Sư Tích chính là cha mình - Đệ nhị giáp tiến sĩ Đào Toàn Bân (1308-1386) đỗ khoa thi năm Nhâm Thìn (1352). Kinh ngạc hơn nữa, chính ông là thầy học của cả ba danh vị tam khôi khoa thi 1374: Trạng nguyên Đào Sư Tích, Bảng nhãn Lê Hiến Giản, Thám hoa Trần Đình Thám. Và còn người học trò nữa là Lê Hiến Tứ (em sinh đôi của Lê Hiến Giản) cũng đỗ tiến sĩ khoa thi này.

Vua Trần Duệ Tông bèn khen Đào Toàn Bân là “Phụ giáo tử đăng khoa” kèm theo vế đối: “Phụ đăng khoa, tử đăng khoa, phụ tử kế đăng khoa chi nghiệp”. Nghĩa là: Cha đỗ, con đỗ, cha con nối nhau làm nên sự nghiệp học vấn đỗ đạt. Tân Trạng nguyên Đào Sư Tích bèn đối: “Tổ tích đức, tôn tích đức, tổ tôn bồi tích đức chi cơ”. Nghĩa là: Ông tích đức, cháu tích đức, ông cháu cùng vun trồng cơ nghiệp đức.

Giai thoại

Cậu học trò Đào Sư Tích thường đi qua đò ngang. Cô lái đò tên là Đông vốn thầm mến cậu học trò. Giữ mãi trong lòng không được bèn ra một vế đối: “Bến tịch mịch, thuyền tịch mịch, bé con nghe cổ tích”. Biết ý trong câu đối của cô lái đò có chữ “Tích” là tên mình, Đào Sư Tích bèn đối: “Trời mênh mông nước mênh mông, quân tử đợi đò đông”. Từ cuối cùng của vế đối là tên cô gái.

Thương thầm, nhớ vụng nhưng vì quan niệm môn đăng hộ đối, gia đình cô gái đã gả cô cho một gia đình dân chài ở Tiền Hải. Nhiều năm sau, khi đang buồn bực thì quan Nhập nội hành khiển Đào Sư Tích nhận được một bức thư không đề tên người gửi, vẻn vẹn chỉ có hai câu: “Chức trọng quyền cao nay đã thoả;

Còn nhớ năm xưa đợi con đò?”. Bức thư làm Đào Sư Tích trằn trọc không ngủ, ông ngồi dậy cầm bút viết hai câu thơ: “Mười mấy năm trời quyền cao chức trọng; Không bằng một khắc trên chuyến đò xưa”.

Giai thoại thứ hai là lần lều chõng đi thi đình. Vừa ra tới ngõ thì gặp một thiếu nữ. Ông xẵng giọng: “Ta đi thi mà gặp gái”. Ai dè, cô gái là người có chữ, bèn chiết tự: “Tử gặp nữ là hảo. Phen này anh đỗ tiến sĩ”. Đào Sư Tích lại mắng: “Tiến sĩ thì thấm tháp gì”. Thiếu nữ tươi cười: “Vậy thì đỗ trạng nguyên được chưa?”. Đào Sư Tích đáp: “Thế thì được”.

Từ quan

Con đường làm quan của Đào Sư Tích thời Trần ban đầu rất hanh thông. Ông được bổ chức Lễ bộ thượng thư. Đến tháng 5 năm Tân Dậu (1381) ông lại được thăng làm Nhập nội hành khiển kiêm Hữu ty lang trung. Nhập nội hành khiển là chức quan cao cấp trong triều đình thời Trần, chỉ đứng sau Tể tướng, nắm giữ các việc cơ mật của đất nước. Cùng năm này cha ông là Đào Toàn Bân cũng được thăng làm Tri thẩm hình viện sự, nắm giữ các việc thực thi pháp luật, “cầm cân nảy mực” xã hội.

Năm 1382, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho triệu các quan để làm bộ sách “Bảo Hòa điện dư bút” gồm tám quyển, ghi chép theo ngày tháng để dạy vua Phế Đế. Đào Sư Tích được Thượng hoàng sai viết bài tựa.

Tháng 12/1392, Đồng binh chương sự, Phụ chính thái sư Hồ Quý Ly chuyên quyền, viết cuốn Minh Đạo gồm 14 thiên. Nội dung nghi ngờ Khổng Tử và phê phán một số nhà hiền triết của Trung Quốc cổ đại. Nhiều cận thần trong triều dâng thư can Thượng Hoàng không nên nghe theo Quý Ly. Trong số này có Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi (người làng Sổ, Mai Đình, Hiệp Hòa, Bắc Giang, đỗ trạng nguyên năm 1384). Hồ Quý Ly bèn giáng Đoàn Xuân Lôi xuống chức Trung thư hoàng môn thị lang kiêm tri Ái Châu thông phán. Còn Đào Sư Tích vì là bằng hữu, thường lui tới nhà Đoàn Xuân Lôi thì bị giáng chức làm Trung thư thị lang đồng tri thẩm hình viện sự.

Ngao ngán cảnh quan trường, Đào Sư Tích cáo quan. Ông không về quê hương là làng Song Khê (Bắc Giang), cũng không về Cổ Lễ (Nam Định) nơi học tập và trưởng thành, mà về ẩn tại thôn Lý Hải (xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Đào Sư Tích mở trường dạy học và hành nghề bốc thuốc. Ông có làm bài thơ “Quy điền”:

Núi lam này đến duyên sinh kế
Cày cấy lo gì thiếu thốn đâu
Lợi nhỏ tuỳ theo triều lưới vó
Ân nhiều bởi gắng lứa tằm dâu
Chen vào quan lộc lo canh cánh
Chẳng thấu lẽ người mất lớn lao
Sớm tỉnh về quê chăm luống cúc
“Thiện” đường để phúc mãi muôn sau

Những tưởng trốn được cảnh quan trường, ẩn dật nơi chốn quê là sẽ yên. Nào ngờ, một buổi ông được lệnh triệu về kinh. Nguyên do, tháng 6/1395, quân Minh tiến đánh quân phản loạn ở Quảng Tây, yêu cầu Đại Việt phải cung cấp 5 vạn quân, 50 vạn thạch lương, 50 thớt voi. Về yêu cầu này, nhà Trần chỉ nộp lương thực, quân Minh yêu cầu phải nộp tiếp tăng nhân, thanh niên và phụ nữ phục vụ chiến trường. Các đại thần đùn đẩy nhau và “tiến cử” Đào Sư Tích. Hồ Quý Ly bèn hạ lệnh “nếu không về triều đi sứ sẽ bị tru di tam tộc”. Đề phòng sự bất trắc, Đào Sư Tích đã cho con cháu họ Đào đổi thành họ Dương, họ Phạm, họ Nguyễn... rồi về triều.

Tử tiết

Vào quãng thời gian cuối cùng của đoàn sứ bộ, vua Minh hỏi Đào Sư Tích: “Nếu Bắc (nhà Minh) đánh Nam (Đại Việt) thì ai thắng? Đào Sư Tích trả lời:

Bắc thắng Nam thua thua thua thắng
Nam thua Bắc thắng thắng thắng thua.

Câu đối của Đào Sư Tích có 5 chữ ‘Thắng” và 5 chữ “Thua”. Biết ý ông nói chưa biết bên nào thắng, bên nào thua, vua Minh rất giận dữ nhưng ngoài mặt tỏ vẻ tươi cười, hỏi tiếp: “Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly chuyên quyền, lòng dân ly tán, tại sao ta lại không thắng?”. Đào Sư Tích đáp bằng hai câu thơ:

Trần thực, Hồ hư, hư hư thực
Cổ lai chinh chiến thực thực hư hư.

Nghĩa của câu thơ này là nhà Trần là thực, nhà Hồ chỉ là hư, hư là hư thực. Xưa nay chinh chiến thực thực hư hư.

Vua Minh thua đối đáp, hận lắm bèn tìm cách sát hại Đào Sư Tích. Lúc Đào Sư Tích về chỗ nghỉ, vua Minh sai viên quan đưa tiễn cầm theo 4 phong thư để mở xem cùng Đào Sư Tích theo thứ tự. Phòng thứ nhất có dòng chữ: “Thượng văn vấn, hạ tri vương”. Viên quan nhà Minh không hiểu. Đào Sư Tích liền bảo: “Đó là chiết tự chữ “Thánh”. Hoàng đế quá khen, cho ta là bậc thánh. Ta đâu dám nhận lời khen đó”. Phong thư thứ hai là đáp án đúng như vậy. Phong thư thứ ba là phong Đào Sư Tích làm Trạng nguyên Trung Hoa. Phong thư thứ tư là dòng chữ: “Hậu họa. Nhất dược, nhị đao”. Viên quan nhà Minh kinh sợ. Đào Sư Tích bèn nói: “Thánh thì thoát tục. Ông chẳng nên quá buồn rầu. Chỉ xin cho được chết bằng thuốc độc để ông khỏi phải khổ tâm khi phải trực tiếp giết ta”.

Thi hài sứ giả Đào Sư Tích được 23 kỵ mã nhà Minh đưa về Đại Việt. Không rõ mộ thực của ông được đặt ở đâu vì cả ba nơi: Song Khê, Cổ Lễ và Lý Hải đều có mộ ông.

Từ Khôi