Ký ức Hà Nội trong ngày hôm nay
Tôi vẫn thường trở về Hà Nội, vì công việc cả vì nỗi nhớ một thời ấu thơ. Mỗi lần về tôi chỉ loanh quanh “phố cũ” nơi có nhiều bạn bè.
1. Trước 1975 gia đình tôi sống ở Hà Nội ngoài những lúc đi sơ tán về nhiều vùng nông thôn khác nhau. Đồng nghiệp của ba má, bạn bè của tôi hầu hết là người Hà Nội, có thể họ ở 36 phố phường cổ xưa “mái ngói xô nghiêng” hay khu phố Tây thoảng “mùi hoàng lan, mùi hoa sữa”, ở khu công nhân Thanh Nhàn – Lò Đúc hay xóm lao động “quân khu chợ Mơ”... Ngoài khác biệt (không dễ nhận ra ngay) của sự nền nã chỉn chu trong trang phục sang trọng kín đáo, hay giản dị gọn gàng sạch sẽ của bộ quần áo người lao động thì ở họ - những người Hà Nội thời ấy – thường giống nhau ở giọng nói nhẹ nhàng, tốc độ và âm lượng vừa đủ nghe, chào hỏi lịch sự và thân thiện, tiếng vâng ạ của các cô gái Hà Nội dịu dàng như một ngọn lá non... Nhà cửa dù rộng rãi biệt thự hay chật hẹp nhà tập thể, nhà phố chia năm xẻ bảy cũng luôn ngăn nắp, mâm cỗ cầu kỳ bốn bát sáu đĩa ngày giỗ chạp hay bữa cơm đơn giản hàng ngày luôn cho thấy sự vén khéo của phụ nữ Hà Nội.
Tôi sống ở Hà Nội thời bao cấp trong chiến tranh, dù thiếu thốn khó khăn nhưng chưa khắc nghiệt bằng giai đoạn “bao cấp trong hòa bình” từ 1976 đến 1986. Hai giai đoạn này khác nhau về bối cảnh xã hội, về quy mô, mức độ và cả “đối tượng” chịu đựng sự bao cấp. Trước 1975 ở miền Bắc mọi thứ đều sản xuất theo kế hoạch hóa và phân phối qua hệ thống thương nghiệp quốc doanh, ở Hà Nội là những “bách hóa tổng hợp” và cửa hàng trung và cao cấp như Vân Hồ, Nhà Thờ, Tôn Đản... Hàng hóa quy theo tiêu chuẩn “mức lương” tưởng như công bằng nhưng luôn phải “phân phối lại” qua các chợ và đội ngũ “con phe”. Tính chất bao cấp tác động và thể hiện rõ nhất trong đời sống đô thị Hà Nội, nơi tập trung cán bộ công chức ăn lương nhà nước, tất cả phụ thuộc vào tem phiếu, đến số phận con người cũng phụ thuộc vào sổ hộ khẩu! Ở nông thôn thì đỡ hơn vì dù sao cũng có mảnh vườn, chuồng gà con lợn, thức ăn tự cung tự cấp trong phạm vi gia đình hay làng xóm. Tuy nhiên xã hội lúc ấy mức độ phân hóa giàu nghèo không quá lớn – nhất là sự thể hiện bên ngoài – “ai cũng như ai” vì của cải sức lực từ nông thôn đến thành phố đều tập trung cho chiến tranh.
Hà Nội với tôi là những ký ức ấm áp tình người. Phần lớn các khu phố hay nhà tập thể đều chung bếp chung nhà tắm đến nhà vệ sinh cũng chung thì tránh sao khỏi dòm ngó thóc mách, nhưng trên hết vẫn là sự nhường nhịn, giúp đỡ nhau, coi như “người nhà” khi hữu sự, vì nhìn quanh mình chẳng bằng ai nhưng vẫn hơn nhiều người. Về Sài Gòn đã 45 năm mà má tôi còn giữ mãi chục bát sứ Hải Dương men trắng ngà có đường hoa văn ô trám ở vành miệng hơi méo. Đó là tiêu chuẩn lao động tiên tiến năm nào đó của bà. Bà giữ lại không chỉ vì còn dùng được mà vì nhớ chuyện khi đó bà được thưởng có 5 cái bát, một người bạn đã nhường thêm phần của cô để bà có đủ chục bát “phòng khi nhà có khách”. Còn tôi, cứ mỗi mùa trung thu là tôi lại nhớ cảm giác thòm thèm vị ngon của chiếc bánh dẻo nhân hạt sen bột khô cứng hay chiếc bánh nướng nhân thập cẩm thoáng mùi vị lạp xưởng... Mỗi nhà được mua 1,2 cái theo phiếu nhưng má tôi thường để dành gửi về quê biếu các gia đình chúng tôi ở nhờ hồi sơ tán, vì “mình ở Hà Nội thỉnh thoảng còn mua được chứ ở nông thôn không có đâu con ạ”.
Ngày nay muốn biết về cuộc sống Hà Nội thời bao cấp có thể đọc những câu thành ngữ, ca dao mới và có nhiều “dị bản”. Dòng văn học dân gian phản ánh hiện thực xã hội qua cái nhìn tinh tế, hài hước mà không kém phần sâu sắc, thậm chí còn châm biếm và đả phá mạnh mẽ. Đấy là những trang “lịch sử bình dân” của đời sống xã hội bên cạnh các bộ “chính sử” của cuộc chiến tranh và sự kiện chính trị. Gần đây khá nhiều cuốn sách “hồi cố” về thời kỳ bao cấp ở Hà Nội được xuất bản và rất nhiều người tìm đọc. Đọc để hồi tưởng một phần đời chịu khó chịu cực, “khổ lắm nhưng thương lắm” chẳng dễ mà quên! Nhưng điều chắc chắn là không ai muốn cuộc sống bao cấp lặp lại để con cháu phải chịu đựng nghèo khó như chúng ta thời ấy.
2. Tôi vẫn thường trở về Hà Nội, vì công việc cả vì nỗi nhớ một thời ấu thơ. Mỗi lần về tôi chỉ loanh quanh “phố cũ” nơi có nhiều bạn bè. Đôi khi cảm giác quá quen thuộc nhàm chán như cần đi đâu đó để biết thêm điều mới mẻ hơn. Nhưng quán tính của ký ức vẫn đủ sức mạnh níu kéo bước chân... Tôi muốn lưu giữ một Hà Nội của ký ức nhưng thật khó! “Hà Nội mới” đã hình thành từ hơn mười năm trước, và trước nữa những thế hệ người Hà Nội đã bị mai một, đến nỗi giờ đây người ta hay nói về “người Hà Nội gốc” như hoài niệm một quá khứ vàng son. Thế mà chỉ mươi năm trước thôi, những người Hà Nội mà tôi quen biết luôn trìu mến khi nói đến gốc gác quê hương “người Hà Nội ai mà chẳng có một nhà quê” là xứ Đoài, Kinh Bắc hay miền đồng bằng chiêm trũng. Để rồi Thủ đô “Hà Nội vẫn là một cái làng lớn” theo nghĩa tốt đẹp: những gì tinh hoa nhất của “tứ xứ” nhà quê ấy được thăng hoa và ngưng tụ ở đây.
Do nghề nghiệp nên tôi luôn quan tâm đến việc bảo tồn di sản đô thị. Hà Nội tiếp nối kinh thành Thăng Long nên tích lũy một nguồn vốn di sản vô cùng phong phú và đa dạng. Chỉ riêng di sản kiến trúc đã đủ loại: từ đình chùa đền miếu, nhà cổ, nhà thờ công giáo, các công trình kiến trúc thời Pháp... Ngoài khu phố cổ “36 phố phường” nổi danh “phố Phái” trong hội họa, Hà Nội còn có một “khu phố Tây” – một bộ phận quan trọng làm nên diện mạo rất riêng của Hà Nội. Khu vực này (nằm phía tây, nam và đông nam của khu phố cổ) được người Pháp quy hoạch và xây dựng vào cuối thế kỷ 19 đến khoảng năm 1945, với ý tưởng thiết lập trung tâm chính trị - văn hóa của Đông Dương thuộc Pháp. Trong khu vực đó có nhiều loại hình kiến trúc Pháp và châu Âu: công sở, biệt thự, dinh thự, công trình văn hóa, giáo dục, công trình công cộng... mang nhiều giá trị kiến trúc và nghệ thuật độc đáo. Trong nửa đầu thế kỷ 20 “khu phố Tây” Hà Nội được coi là đẹp nhất Việt Nam và Đông Nam Á.
Tuy nhiên trải qua chiến tranh và sự hạn chế của chính quyền, của cộng đồng trong nhận thức giá trị di sản của khu vực này, rồi quá trình “đổi mới” nhanh chóng và phức tạp đã có tác động tiêu cực đến sự hài hòa của quy hoạch, vẻ đẹp hoàn hảo của nhiều đường phố. Một số công trình cổ biến mất, các công trình còn lại hoặc bị xuống cấp nghiêm trọng, hoặc sửa chữa làm mất đi nét yêu kiều mà thay vào đó vẻ ngoài hiện đại nhưng nhạt nhòa bản sắc. Rất may mắn và kịp thời, từ khoảng 2010 đến nay những di sản kiến trúc này được đánh giá đúng giá trị nhiều mặt của nó, Hà Nội đã bước đầu bảo tồn và phát huy giá trị di sản gồm không gian đô thị, cảnh quan kiến trúc, cấu trúc đô thị trong đó các khu vực theo từng chức năng chủ yếu, có phong cách kiến trúc riêng biệt, các công trình kiến trúc đặc thù... Những kinh nghiệm thực tiễn của Hà Nội trong việc đề ra chính sách và thực thi bảo tồn di sản đô thị được nhiều nơi vận dụng trong đó có TP HCM.
Hà Nội còn có khu di tích khảo cổ học Hoàng thành Thăng Long - Di sản văn hóa thế giới. Quá trình khai quật đã phát lộ được quần thể nền móng của nhiều loại hình di tích kiến trúc: nền nhà của các cung điện, lầu gác, hệ thống giếng nước, đường cống tiêu thoát nước... cùng với số lượng lớn và phong phú khoảng vài triệu loại hình di vật đồ gốm sứ, đồ kim loại, di cốt mộ táng... có niên đại kéo dài từ “An Nam đô hộ phủ” thời Đường đến kinh đô Thăng Long thời Lý - Trần - Lê rồi thành Hà Nội thời Nguyễn, phản ánh lịch sử liên tục, lâu dài và độc đáo của Thăng Long - Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của khảo cổ học là những tài liệu đặc biệt quý giá, là bằng chứng toàn vẹn trung thực góp phần bổ sung vào khoảng trống trong kho tàng tư liệu lịch sử và di vật khảo cổ của "Thăng Long ngàn năm văn hiến" mà trước đó còn lại rất ít ỏi. Việc xây dựng và trưng bày thành công Bảo tàng Hoàng thành Thăng Long là một Dự án điển hình của Khảo cổ học đô thị ở Việt Nam: Bảo tồn và “khai thác” di tích trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa và du lịch – một ngành có đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế từ “công nghệ di sản” (heritage industry). Khu di tích Hoàng thành Thăng Long có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước vì ý nghĩa di sản lịch sử - văn hóa quý giá đặc biệt đối với Hà Nội và cả nước.
Hà Nội đang lớn rộng từng ngày, mỗi lần gặp lại tôi không khỏi ngỡ ngàng dù đã quá quen thuộc. Khu đô thị mới mọc lên tứ phía, qua sông Hồng không chỉ có cầu Long Biên duyên dáng trăm năm mà có thêm những cây cầu hiện đại, vùng ngoại ô ngày nào giờ là quận nội thành đường phố thênh thang, phố cổ chen chúc xe máy xe hơi đắt tiền, người phố ngày càng trẻ hơn đẹp hơn nhưng cũng nhộn nhạo hơn... Tất cả điều đó đôi khi làm tôi cảm thấy lạc lõng giữa Hà Nội. Tôi hiểu đó là quy luật phát triển của cuộc sống. Nhưng chỉ cần ngồi quán cà phê nhìn theo gánh hàng hoa mỗi sáng trên phố cổ, dạo bước trên vỉa hè vàng lá rụng, uống cốc bia hơi trưa nắng hanh hao... bỗng lòng nao nao bởi nhận ra vẻ đẹp một Hà Nội xưa cũ vẫn hiện diện đâu đó, nhận ra bạn bè nguyên vẹn sự tinh tế và chân tình của người Hà Nội.
Chỉ thế thôi mà mỗi lần trở về là mỗi lần ngập ngừng khi nói lời từ biệt.
Sài Gòn 7/2020