Quảng Nam: Nguyên nhân ban đầu gây sạt lở núi ở Trà Leng
Chiều ngày 4/11, ông Trương Xuân Tý, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam cho Đại Đoàn Kết biết, Viện Khoa học và Thủy lợi miền Trung- Tây Nguyên đã có báo cáo về nguyên nhân ban đầu gây sạt lở núi ở Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu và khảo sát thực địa tại hiện trường ngày 31/10, Viện Khoa học và Thủy lợi miền Trung- Tây Nguyên đã có một số nhận định ban đầu vụ sở đất nói trên.
Theo đó, Viện Khoa học và Thủy lợi miền Trung- Tây Nguyên nhận định: Trà Leng là khu vực có tổ hợp rất nhiều bất lợi về địa hình dốc, phân cắt mạnh nên hình thành 1 khe suối hẹp hình chữ V, có độ dốc từ 300÷ 450; 2 vách bên khe suối có cấu tạo nền đất bở rời, nằm trên nền đá gốc nên dễ gây sạt trượt.
Tại Trà Leng trước khi sạt lở núi xảy ra đã có thời gian qua mưa kéo dài hơn 16 ngày (6-22/10), đất bị bão hòa hết và khi gặp trận mưa lớn ngày 27-28/10 (bão số 9) với gần 180mm thì đất như 1 khối bùn lỏng sạt lở lao nhanh xuống phía dưới tạo ra một trận lũ quét kéo theo đất đá, cây cối chắn ngang cống thoát nước dẫn tới dòng bùn đá đã chuyển hướng sang bờ phải lao vào khu dân cư, cuốn đi tất cả trên đường đi của nó tạo ra một thảm họa như chúng ta đã chứng kiến.
Viện Khoa học và Thủy lợi miền Trung- Tây Nguyên cũng cho rằng: “Việc dự báo lũ quét, sạt lở đất rất khó, hiện nay chúng ta chỉ có thế cảnh báo, xác định được các vùng, điểm có nguy cơ sạt lở. Tuy nhiên để dự báo chính xác thời điểm xảy ra là không thể”.
Tuy nhiên Viện cũng đưa ra một số giải pháp trước mắt và lâu dài. Đối với giải pháp trước mắt, đó là ngay trong mùa mưa bão này, đặc biệt có bão số 10 đang chuẩn bị đổ bộ gây ra mưa lớn thì nguy cơ sạt lở đất càng nghiêm trọng vì đất đã quá bão hòa nước, do đó địa phương cần rà soát ngay các khu vực có nguy cơ sạt lở đất cao theo khuyến cáo của các cơ quan chuyên môn và theo dõi dự báo mưa của Đài khí tượng thủy văn để di dời dân đến nơi an toàn.
Đối với người dân, cần chủ động quan sát khi thấy các dấu hiệu bất thường như: Nứt đất, nứt nhà, cây nghiêng, nước chảy sườn đồi chuyển màu, ... phải báo ngay chính quyền và thực hiện theo hướng dẫn của Chính quyền.
Theo Kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên thì huyện Nam Trà My có khoảng 15 điểm nguy cơ cao tập trung tại các xã Trà Leng, Trà Vân, Trà Mai, Trà Don,... Còn huyện Bắc Trà My có khoảng 30 điểm nguy cơ cao tập trung tại Thị trần Trà My; xã Trà Bui, Trà Sơn, Trà Giáp, Trà Giác; Huyện Phước Sơn có khoảng 13 điểm nguy cơ cao tập trung tại Thị trấn Khâm Đức, xã Phước Lộc, xã Phước Thành, Phước Xuân,… huyện Tây Giang: Một số điểm nguy cơ cao tập trung tại các Xã A Tiêng, A Vương, Ch’ơm, Lăng, Dang, Bha Lêê.
Còn về giải pháp lâu dài, Viện cho rằng, xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở đất tới cấp huyện tỷ lệ 1/5.000 và cấp xã tỷ lệ (1/1.000 - 1/2.000) và phổ biến tới chính quyền cấp xã, thôn và người dân biết. Hiện nay, Viện Khoa học Thủy lợi miền Trung và Tây Nguyên đã xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ SLĐ cho 3 huyện (Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn) với tỷ lệ 1/50.000 và toàn tỉnh 1/100.000.
Cùng với đó, tập huấn, hướng dẫn người dân kỹ năng nhận biết về Phòng chống thiên tai nói chung và sạt lở đất nói riêng. Đặc biệt cần phải đưa các kiến thức về Phòng chống thiên tai vào chương trình giáo dục phổ thông. Rà soát, quy hoạch bố trí lại dân cư, cơ sở hạ tầng (đặc biệt là đường giao thông, cống thoát nước phải đủ khẩu độ thoát được lũ lớn, ....) an toàn trước thiên tai. Cần xây dựng những khu nhà Phòng chống thiên tai có kết cấu đảm bảo, để người dân có thể tránh trú trong những thời điểm mưa bão, có nguy cơ Sạt lở đất.
Xây dựng hệ thống cảnh báo Sạt lở đất tại các khu vực dân cư có nguy cơ cao. Tăng mật độ trạm đo mưa tự động để nâng cao công tác cảnh báo chính xác hơn. Cần rà soát và đánh giá để đưa ra tỷ lệ các loại rừng trồng, rừng tự nhiên cũng như phương thức khai thác hợp lý để nâng cao chất lượng thảm phủ rừng nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ gia tăng lũ lụt, sạt lở đất và lũ quét. Bởi vì rừng có vai trò hết sức quan trọng trong điều hòa dòng chảy mặt, dòng chảy ngầm cũng như ổn định của các mái dốc sườn đồi.