Tăng sức đề kháng cho nền kinh tế: Gỡ nút thắt tiếp cận các gói hỗ trợ
Tăng sức đề kháng cho nền kinh tế là vấn đề quan trọng trong bối cảnh dịch Covid-19. Giới chuyên gia cho rằng, dịch bệnh là một phép thử và cũng là bài học để tăng cường hơn nữa các biện pháp giúp nền kinh tế trở nên vững vàng hơn.
Vì sao nền kinh tế trụ vững trong dịch bệnh?
Nếu như trong năm 2020, kinh tế toàn cầu ở mức âm 4%, thì Việt Nam với chủ trương mục tiêu kép vừa chống dịch vừa khôi phục, phát triển kinh tế đã có mức tăng trưởng dương 2,91%. Mức tăng trưởng khiêm tốn này cũng đã là mơ ước của rất nhiều nền kinh tế khác. Điều đó cho thấy nội lực, sức chống chọi của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, trong khi dịch hoành hành, các nền kinh tế đóng cửa, thì kinh tế Việt Nam cũng gặp phải muôn vàn khó khăn. Ở lĩnh vực ngân hàng, theo ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, tín dụng năm 2020 tăng trưởng thấp hơn các năm trước do cầu tín dụng suy yếu. Điều này cũng đã gây khó khăn lớn cho sản xuất cũng như đầu tư. Bình quân hàng năm tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng từ 14-18%, nhưng năm 2020 dư nợ tín dụng chỉ tăng khoảng 12,13% so với cuối năm 2019.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020, cả nước có 101,7 nghìn doanh nghiệp (DN) tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 13,9% so với năm trước. Việc DN buộc tạm dừng, chờ phá sản, hoàn tất thủ tục giải thể gia tăng trong thời gian qua đã phản ánh sự khó khăn của điều kiện sản xuất, kinh doanh và tổng cầu một số ngành giảm do tác động của dịch Covid-19.
Trong khó khăn ấy, Chính phủ đã có những biện pháp nhanh chóng tháo gỡ, “san sẻ” khó khăn cho cộng đồng DN cũng như người lao động. Đó là các gói hỗ trợ miễn, giảm thuế, phí, lệ phí (khoảng 69.300 tỷ đồng) và gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất (khoảng 180.000 tỷ đồng); gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng giá trị ước tính 36.600 tỷ đồng (0,6% GDP)…
Cùng đó, việc Chính phủ thúc đẩy giải ngân dòng vốn đầu tư công cũng đã tạo động lực giúp nền kinh tế năng động hơn, chủ động hơn trong tình thế dịch bệnh. Kết thúc năm 2020, tỷ lệ giải ngân dòng vốn công đạt cao nhất so với một số năm trước đó. Khi dòng vốn lớn này vào cuộc sống cũng có nghĩa là tạo ra nhiều công ăn việc làm, không để nền kinh tế gãy đổ.
Mặt khác, cũng trong khó khăn bộn bề của năm 2020, nông nghiệp Việt Nam đã vươn lên một cách ngoạn mục. Nhiều sản phẩm nông sản của Việt Nam giành được thị phần không chỉ ở các thị trường truyền thống mà còn cả ở những thị trường mới, thị trường tiềm năng. Cùng đó, xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trưởng trong bối cảnh hết sức khó “cập cảng nước ngoài” do các quốc gia đóng cửa phòng, chống dịch. Tăng trưởng xuất khẩu đã đem đến sức mạnh cho nội lực nền kinh tế Việt Nam.
Cũng rất đáng chú ý là trong năm 2020, Việt Nam đã ký 3 hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó nổi bật là EVFTA (hiệp định thương mại tư do Việt Nam - EU ), chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. Đây là một nỗ lực lớn lao trong quyết tâm mở rộng cửa nền kinh tế của Chính phủ Việt Nam.
Quan trọng là tạo sự thông thoáng khi tiếp cận các gói hỗ trợ
Trở lại vấn đề tăng sức đề kháng cho nền kinh tế trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 vẫn phức tạp, các chuyên gia kinh tế cho rằng để đạt mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra là từ 6,5% đến 6,8% trong năm 2021, thì cũng rất cần những gói hộ trợ tiếp theo. Ở đây, một vấn đề cần phải được quan tâm là phải gỡ nút thắt để DN tiếp cận được gói hỗ trợ. Theo nghiên cứu về hiệu quả của các chính sách hỗ trợ khu vực DN chống chọi với đại dịch Covid-19 của Trường Đại học Kinh tế quốc dân và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA), chỉ có 22,25% DN nhận được hỗ trợ.
“Trong các lý do DN không nhận được các hỗ trợ thì có 54,67% DN cho là vì họ không đáp ứng được điều kiện để nhận được hỗ trợ; có tới 25,95% DN không biết đến các chính sách hỗ trợ, có 14,88% DN cho biết quy trình, thủ tục hỗ trợ còn quá phức tạp nên DN không muốn tiếp cận các hỗ trợ”- theo PGS.TS Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý khoa học, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Tương tự, người ta cũng đã chứng kiến việc ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) không ít lần cho rằng DN phàn nàn, đánh giá thấp về mức độ thuận lợi khi tiếp cận thông tin về chính sách hỗ trợ, mức độ hữu ích của chính sách hỗ trợ theo từng ngành, lĩnh vực kinh tế. Còn nói như ông Vũ Thế Bình - Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam thì số lao động cũng như doanh nghiệp hoạt động trong ngành này tiếp cận và được hỗ trợ “đếm trên đầu ngón tay”, trong khi du lịch là lĩnh vực bị thiệt hại hết sức nặng nề bởi đại dịch.
“Chính sách tốt nhưng chính những rào cản, thủ tục phức tạp khi triển khai làm giảm hiệu quả hỗ trợ. Khi chính sách không hiệu quả thì cần phải thẳng thắn nhìn nhận các khâu để điều chỉnh, cần nói rõ ràng, không nên để DN mòn mỏi”- ông Bình chia sẻ.
Ở góc nhìn rộng, PGS.TS Phạm Hồng Chương - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân nhận xét thời gian qua Chính phủ đã có những bước đi kiên quyết và đúng đắn, kiềm chế sự lây lan bùng phát của đại dịch. Tuy nhiên, để có thể chiến thắng dịch bệnh trên cả hai mặt trận y tế và kinh tế thì bên cạnh việc hạn chế dịch bệnh, cần có những chính sách hợp lý nhằm tăng cường sức đề kháng của nền kinh tế. Đồng thời, chuẩn bị đủ năng lực ứng phó khi dịch bệnh kéo dài.” Từ đó, tăng cường tiềm lực để phục hồi kinh tế nhanh chóng ngay khi dịch bệnh được khống chế, không để nền kinh tế rơi vào suy thoái” - theo ông Chương.
Cũng về sự tăng sức đề kháng cho nền kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh vẫn tiếp diễn, nhiều ý kiến cho rằng hết sức quan trọng là kinh tế vĩ mô phải ổn định, cho dù có nhiều chính sách mang tính “chiến thuật” đi chăng nữa. Dịch bệnh có thể còn kéo dài, nhiều DN có thể sẽ phá sản, nhưng vẫn cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó, quan trọng là giữ được lạm phát và lãi suất ở mức thấp, tỷ giá ổn định; đầu tư công được thực hiện đúng mục đích và giám sát tốt; môi trường đầu tư được cải thiện. Đó cũng chính là chuẩn bị nội lực để nhanh chóng hồi phục nền kinh tế khi dịch bệnh đi qua và các nền kinh tế trên thế giới mở cửa trở lại.
Nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh dịch bệnh thì mỗi doanh nghiệp cần kiểm soát tốt dòng tiền và vốn luân chuyển để duy trì tính thanh khoản; tinh gọn quy trình, tối ưu hóa chi phí, cắt giảm các khoản đầu tư kém hiệu quả; tận dụng các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Đồng thời, doanh nghiệp cần chủ động áp dụng nền tảng số và các mô hình mới trong hoạt động thương mại, sản xuất, kinh doanh, quản lý; đa dạng hóa thị trường đầu vào và đầu ra, nâng cao tính chủ động và linh hoạt; tìm kiếm và mở rộng các kênh đầu tư và kênh huy động vốn. Đó phải được xem là chiến lược để doanh nghiệp thích nghi và phát triển sau đại dịch.