Bệnh Glôcôm: Nguyên nhân gây mù lòa nguy hiểm
Bệnh Glôcôm là một bệnh thường gặp, mang tính xã hội cao. Glôcôm đứng thứ hai trong các nguyên nhân gây mù loà ở hầu hết các khu vực trên thế giới, thường chỉ đứng sau đục thể thủy tinh.
Bệnh nguy hiểm ở chỗ không có thuốc điều trị hoặc phẫu thuật nào có thể phục hồi được những tổn thương chức năng và thực thể do glôcôm gây ra.
Triệu chứng cơ bản có thể nhận biết sớm của bệnh Glôcôm
Bệnh Glôcôm có nhiều thể bệnh và nhiều nguyên nhân khác nhau, do vậy triệu chứng biểu hiện cũng rất khác nhau.
Nhức mắt, nặng mắt thoáng qua: bệnh Glôcôm xuất hiện âm thầm, tiến triển chậm trong thời gian dài, nhiều người bệnh không cảm thấy đau nhức mắt, một số trường hợp đôi khi thấy mắt căng tức nhẹ thoáng qua hoặc nhức quanh hốc mắt.
Mờ mắt thoáng qua: ở giai đoạn sớm khi tình trạng nhãn áp tăng lên có thể làm nhìn mờ như sương mù hoặc nhìn nhòe trong 1 thời gian ngắn. Sau đó, khi áp lực mắt giảm xuống, người bệnh nhìn rõ trở lại, triệu chứng này có thể gặp ở nhiều bệnh khác nhưng mờ mắt thoáng qua xảy ra cùng lúc với nhức mắt là dấu hiệu nghi ngờ rõ nhất của bệnh Glôcôm.
Nhìn thấy hào quang: khi nhãn áp tăng, người bệnh đôi khi sẽ thấy quầng sáng xanh đỏ khi nhìn vào đèn. Tình trạng này có thể kéo dài cả buổi và lập đi lập lại trong một khoảng thời gian.
Nhức đầu: nhức đầu là triệu chứng của rất nhiều bệnh trong đó cao huyết áp là bệnh thường hay nghĩ đến hơn là bệnh Glôcôm.
Ngoài ra, người mắc bệnh Glôcôm có thể có thêm một số triệu chứng như:
Nhìn đèn có quầng xanh đỏ, nhìn có đom đóm bay trước mắt.
Thích nghi sáng tối kém, khó nhìn theo vật di động.
Nhìn khuyết góc hoặc nhìn bị che lấp một phần.
Đau nhức hốc mắt.
Mất dần tầm nhìn ngoại vi: người bệnh có cảm giác như nhìn qua đường hầm.
Mắt sưng đỏ, khi lấy tay di vào phần mí mắt trên thấy cứng như hòn bi.
Nôn hoặc buồn nôn.
Thường thì trong giai đoạn đầu, các triệu chứng xuất hiện ít và khó phát hiện. Theo thời gian bệnh có thể tiến triển nặng lên gây suy giảm thị lực nghiêm trọng, thậm chí mù lòa.
Đối tượng dễ mắc bệnh Glôcôm
Glôcôm là bệnh không phân biệt lứa tuổi và chủng tộc. Tuy nhiên, một số nhóm người có nguy cơ cao dễ mắc bệnh và cần được kiểm tra mắt thường xuyên là:
Người trên 40 tuổi;
Người có bệnh tiểu đường hay tăng huyết áp;
Người có tiền căn gia đình đã mắc bệnh Glôcôm;
Người bị viễn thị, giác mạc (tròng đen) nhỏ;
Người có tiền sử dùng thuốc nhóm steroid đường toàn thân hoặc tra mắt trong thời gian dài, cận thị nặng, có tiền căn chấn thương hay phẫu thuật mắt,…
Các hậu quả của bệnh glôcôm
Theo các nghiên cứu mang tính dự báo trong khu vực và trên thế giới, số lượng người bệnh glôcôm sẽ tăng lên đáng kể vào những năm tới. Ước tính sẽ có 80 triệu người mắc bệnh glôcôm vào năm 2020, chiếm tỷ lệ 2,86% trên quần thể dân số trên 40 tuổi. Số người mù lòa cả hai mắt do glôcôm sẽ tăng từ 8,4 triệu năm 2010 lên 11,2 triệu người vào năm 2020. Việt Nam hiện nay có khoảng 24.800 người mù do glôcôm.
Bệnh glôcôm là bệnh lý của dây thần kinh thị giác, do vậy các hậu quả cơ bản của nó là tổn hại chức năng thị giác thể hiện qua 2 khía cạnh: tổn hại trường nhìn (vùng mà mắt bao quát được), co hẹp từ ngoại vi, ám điểm cạnh trung tâm và tổn hại thị lực trung tâm cuối cùng sẽ dẫn đến mù lòa. Trong một số trường hợp, mù lòa còn có thể kèm theo đau nhức dẫn đến phải bỏ mắt. Lưu ý là các tổn hại chức năng thị giác của bệnh glôcôm là không hồi phục được.
Phương pháp điều trị
Hiện nay, việc điều trị glôcôm phụ thuộc vào thể bệnh: glôcôm góc đóng giai đoạn sớm có thể điều trị bằng laser: tạo một đường lưu thông mới của thủy dịch qua lỗ mở bằng laser của mống mắt từ hậu phòng ra tiền phòng; giai đoạn muộn phải phẫu thuật. Còn glôcôm góc mở điều trị ban đầu là thuốc hạ nhãn áp, nếu không đạt yêu cầu phải chuyển điều trị bằng laser hoặc phẫu thuật.
Có phòng được bệnh glôcôm?
Cho đến nay chưa có một phương pháp nào giúp phòng bệnh glôcôm hiệu quả. Nhưng tổn hại chức năng thị giác do glôcôm có thể phòng tránh được nếu được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời. Những người từ 40 tuổi trở lên, đặc biệt nếu có người trong gia đình đã mắc bệnh này nên có ý thức đi khám sàng lọc bệnh.
Đối với bệnh nhân glôcôm phải có ý thức tuân thủ điều trị, nếu điều trị đúng và nghiêm túc, bệnh sẽ ổn định nhưng bệnh sẽ theo ta suốt đời. Nếu không tuân thủ điều trị, bệnh sẽ tiếp tục tiến triển dẫn đến mất thị lực vĩnh viễn.
Khuyến nghị
Khi có một hay cùng một lúc xuất hiện các triệu chứng trên, bệnh nhân cần đến ngay các cơ sở y tế có chuyên khoa mắt để kiểm tra, chẩn đoán bệnh.
Những người có yếu tố nguy cơ dễ mắc bệnh nêu trên cũng cần đi khám mắt định kỳ mỗi năm một lần để được phát hiện sớm bệnh Glôcôm.
Vì bệnh Glôcôm là bệnh gây giảm thị lực vĩnh viễn, do đó việc phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm (khi thần kinh thị giác chưa bị tổn thương nhiều) sẽ giúp bệnh nhân bảo tồn được thị lực tốt hơn.