Nguy cơ nợ xấu tăng cao vì đại dịch Covid-19
Theo nhìn nhận của các chuyên gia, dịch Covid-19 khiến doanh nghiệp bị gián đoạn dòng tiền do đứt gãy chuỗi cung ứng, tỷ trọng vay mượn ngân hàng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh tăng cao… khiến nợ xấu quay trở lại.
Nhiều ngân hàng có nợ xấu tăng mạnh
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) về xử lý nợ xấu, có thể nói hiện tại, các bảng cân đối tài chính của ngân hàng đã “đẹp” lên nhiều khi tỷ lệ nợ xấu toàn ngành giảm dưới 3%. Nợ xấu không chỉ được bán cho Công ty Khai thác và Quản lý tài sản (VAMC) mà còn được chính các ngân hàng tự mua về xử lý và làm sạch bảng cân đối.
Tuy nhiên, có điều đáng bàn là nợ xấu đang dần quay trở lại ám ảnh ngân hàng và cả nền kinh tế.
Ví dụ, ACB nợ xấu tăng 61% lên 2.954 tỷ đồng, VPBank nợ xấu tương ứng hơn 10.420 tỷ đồng, VietinBank nợ xấu hiện khoảng hơn 8.950 tỷ đồng. Vietcombank nợ xấu lên hơn 7.690 tỷ đồng. MB lên hơn 4.180 tỷ đồng.
Không chỉ nợ xấu ở các ngân hàng đang tăng lên, mà ngay tại Công ty TNHH MTV quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) việc xử lý nợ xấu, tốc độ thu nợ chậm.
Ông Đoàn Văn Thắng, Tổng Giám đốc VAMC cho biết: “Bán đấu giá thành công rồi, lẽ ra người mua bình thường có thể trả ngay, nhưng hiện nay cũng xin giãn”.
Ông Nguyễn Huy Tài, đại diện ngân hàng SHB cho biết, khó khăn của DN cũng là khó khăn của ngân hàng. Và khó khăn hiện nay, không chỉ đến từ việc thu hồi nợ, mà các dòng tiền khác của khách hàng đều bị ảnh hưởng, làm giảm hoạt động của ngành ngân hàng.
Khi dịch bệnh xảy ra, việc xử lý nợ xấu và tương tác với khách hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng nhiều đơn vị từ chối gặp gỡ trong bối cảnh dịch, hoặc phương thức trao đổi qua email, điện thoại cũng không hiệu quả.
Công ty cổ phần Chứng khoán BOS cho hay, trong báo cáo tài chính quý I-2021, nhiều ngân hàng có nợ xấu tăng mạnh. Cũng theo Công ty này, việc NHNN cho phép ngân hàng giữ nguyên nhóm nợ làm cho bức tranh nợ xấu chưa phản ánh đúng thực tế, lợi nhuận có thể có nhưng rủi ro cũng tăng lên.
Theo ước tính của chuyên gia này, dư nợ được cơ cấu lại cho khách hàng bị ảnh hưởng dịch Covid-19 theo Thông tư 01/2021/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT-NHNN ước khoảng 350.000 tỷ đồng, trong đó, khoảng 30% nợ cơ cấu tiềm ẩn nguy cơ trở thành nợ xấu. Như vậy, khả năng nợ xấu nội bảng của các ngân hàng năm nay sẽ vào khoảng 2,5-3%.
Lộ trình chứng khoán hoá nợ xấu?
Ông Đoàn Văn Thắng, Tổng giám đốc Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng nói, giao dịch mua bán nợ ở nước ta vẫn chủ yếu thông qua hợp đồng, còn ở các nước là giao dịch qua hình thức chứng khoán hóa.
Được biết Bộ Tài chính đang xây dựng đề án chứng khoán hoá các khoản nợ xấu nhưng quá chậm, và theo ông Thắng cần phải nhanh hơn nữa.
Theo tìm hiểu, chứng khoán hoá nợ xấu là các khoản nợ, trong đó có nợ xấu của các TCTD sẽ được đóng gói lại và phát hành thành một loại cổ phiếu, rồi đem bán trên thị trường chứng khoán. Do đó, giá trị của cổ phiếu đó sẽ được đảm bảo bằng chính những món nợ cùng tài sản đảm bảo đi kèm.
Vậy chứng khoán hoá nợ xấu liệu có dễ? Theo chuyên gia kinh tế TS Nguyễn Trí Hiếu: đây là công cụ tài chính được sử dụng rất hiệu quả trong xử lý nợ xấu ở nhiều quốc gia, do đó, Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, như Mỹ... để sớm hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm triển khai chứng khoán hóa nợ xấu càng sớm càng tốt.
Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực đánh giá, Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức thực sự, các nghiệp vụ phái sinh cho khoản nợ xấu (trong đó có chứng khoán hóa) chưa có, dẫn đến thiếu nhà đầu tư có năng lực, thiếu tính thanh khoản của các khoản nợ.
Đây cũng là lý do làm giảm tính hấp dẫn, giá trị và nguồn lực để xử lý các khoản nợ này, khiến quá trình mua - bán nợ theo giá thị trường càng khó khăn.