Hành trình sơn mài Việt
Sơn mài xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới cách đây hơn 4.000 năm. Giới nghiên cứu đã phát hiện nhiều cổ vật tại các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, Miến Điện… Dù vậy, đến nay, các nhà khảo cổ học vẫn tranh cãi về nguồn gốc xuất xứ của nghệ thuật sơn mài cổ truyền. Tại Việt Nam, những vết tích đầu tiên về chất liệu này được khai quật cách đây hàng trăm năm trước Công nguyên. Đến nay, sơn mài đã trở thành chất liệu truyền thống được nhiều nghệ nhân, họa sĩ sử dụng, sáng tạo nên những tác phẩm nổi tiếng.
1. “Sơn mài” là cách gọi phối hợp giữa chất liệu (sơn) và động tác kỹ thuật (mài). Sơn được trích từ cây sơn – một loại cây mọc nhiều ở vùng trung du phía Bắc, nhiều nhất là ở tỉnh Phú Thọ. Người xưa dùng sơn ta để sơn gắn các đồ dùng, sơn thuyền, sơn vũ khí, làm các đồ thờ cúng, trang trí đình chùa… Tiếp đó phủ lên các vật dụng hoặc đồ thờ cúng bằng gỗ, gốm… nhằm làm độ bền. Sau này, sơn ta được dùng vào các công việc trang trí trong các cung điện, đền đài, chùa tháp…
Giới nghiên cứu cũng đã chỉ ra, tại Việt Nam, vào thời Đinh (930-950), người Việt đã biết sử dụng mủ cây sơn để trét thuyền. Lần lượt qua các triều đại Lê, Lý, Trần, nhiều cổ vật, pho tượng gỗ hay đất được sơn son thếp vàng vẫn còn được lưu giữ. Cho tới đời vua Lê Nhân Tông (1443-1460), Trần Thượng Công mới được tôn là bậc thầy đầu tiên của ngành nghề này. Các học trò của ông đã lập phường thợ tỏa đi khắp nơi, những người thợ giỏi được triều đình nhận vào nội phủ để trang trí nội thất trong cung điện. Hiện nay Huế được xem là nơi mà những vết tích và tác phẩm sơn mài còn được bảo lưu một cách quy mô và đầy đủ nhất.
Trải qua thăng trầm thời gian, nghề làm sơn mài đã xuất hiện ở nhiều vùng. Những làng nghề chuyên làm sơn mài cũng đã định hình tại các tỉnh như Hà Nội, Bắc Ninh, Phú Thọ, Bình Dương, TP HCM… Trong đó, có thể kể tới một số làng nghề nổi tiếng như làng nghề sơn mài Đình Bảng (Tiên Sơn - Bắc Ninh), làng nghề sơn mài Hạ Thái (Thường Tín, Hà Nội), làng nghề sơn mài Cát Đằng (Nam Định), làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp (TP Thủ Dầu Một, Bình Dương)… Sản phẩm của các làng nghề này không những được tiêu thụ mạnh trong nước mà còn là mặt hàng xuất khẩu, được ưa chuộng tại nhiều thị trường kỹ tính như: Mỹ, Nhật Bản, Nga...
2. Sơn mài truyền thống có thể chia làm 3 loại: Sơn quang được dùng trên các vật dụng bằng mây, tre, gỗ như hộp, khay… có nhuộm màu nhẹ, khá phổ biến trong dân gian; Sơn son thếp vàng chỉ được thấy trong các gia đình quyền quý, các nhà thờ, đình, chùa, nhất là các lăng tẩm, cung điện vua chúa… Ngày nay có thể thấy ở các pho tượng, câu đối, hộp, kiệu võng, án thư… trong những di tích cổ hoặc bảo tàng ở Việt Nam; Sơn mài đắp nổi - đây là loại nổi tiếng và độc đáo nhất. Theo đó, các chi tiết đắp nổi được làm bằng hỗn hợp trộn giữa bột đá non, tro mo cau và giấy tinh giã nhuyễn. Loại sơn mài này thường thấy trong nội phủ, hoàng cung với nhiều chi tiết hoa văn vô cùng phong phú, bắt mắt như rồng, phụng, tứ linh…
Nghề sơn mài của Việt Nam, trong nhiều thập niên vừa qua, đã được thế giới biết đến với nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ và tác phẩm hội họa nổi tiếng. Giới chuyên gia cho rằng, nét đẹp của sơn mài mang một sức truyền cảm mạnh mẽ của một truyền thống văn hóa cổ xưa in đậm nét trong tâm thức của người Việt. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ sơn mài và hội họa sơn mài là những sản phẩm, tác phẩm độc đáo bởi chất liệu sơn ta và quy trình chế tác, nghệ thuật sáng tạo, cần được xây dựng trở thành sản phẩm văn hóa độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nếu các làng nghề với những nghệ nhân tài hoa làm ra những sản phẩm sơn mài bắt mắt đáp ứng nhu cầu trang trí và được nhiều du khách thể giới yêu thích thì các họa sĩ Việt Nam cũng đã để lại dấu ấn của mình thông qua các tác phẩm được sáng tác bằng chất liệu sơn mài.
Những bức tranh nổi tiếng nhất của nhiều danh họa Việt Nam đều khai thác chất liệu sơn mài truyền thống. Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề sơn như sơn then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp, vàng thếp, vỏ trai, vỏ trứng, ốc, cật tre... vẽ trên nền vóc màu đen…
Lịch sử mỹ thuật Việt Nam ghi nhận, khoảng năm 1930 các hoạ sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương như Trần Quang Trân, Phạm Hậu, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí… đã phối hợp với nghệ nhân Đinh Văn Thành tiến hành thử nghiệm, đưa kỹ thuật sơn son thếp vàng vào làm tranh nghệ thuật. Thuật ngữ “sơn mài” và “tranh sơn mài” có từ đó.
Đến nay, những tác phẩm đỉnh cao, làm nên tên tuổi của họa sĩ Nguyễn Gia Trí như “Vườn xuân Trung Nam Bắc”, “Thiếu nữ bên hoa phù dung”, “Bên đầm sen”, “Trong vườn” (8 tấm), “Cảnh nông thôn”…; và của họa sĩ Phạm Hậu như “Chùa Thầy”, “Dân làng”, “Phong cảnh trung du Bắc Bộ” chính là những tác phẩm được sáng tác bằng chất liệu sơn mài. Riêng tác phẩm “Vườn xuân Trung Nam Bắc” của Nguyễn Gia Trí còn được công nhận là Bảo vật quốc gia.
Sau đó, qua sự khai thác và sáng tạo của nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam, tranh sơn mài Việt Nam đã có chỗ đứng. Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm cũng có nhiều tác phẩm thành công với chất liệu sơn mài truyền thống. Đến nay, chất liệu sơn mài được đánh giá đã góp phần tạo nên sự độc đáo của mỹ thuật Việt Nam.
3. Để vinh danh nghệ thuật sơn mài, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 4345 phê duyệt Đề án Xây dựng, quảng bá thương hiệu quốc gia Nghệ thuật sơn mài Việt Nam giai đoạn 2020 - 2030. Đề án được xây dựng gồm các nội dung: xây dựng logo nhãn hiệu công nhận và bộ nhận diện; ban hành quy trình chế tác, tiêu chuẩn nguyên vật liệu, tiêu chí của nghệ thuật sơn mài Việt Nam; đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, tuyên truyền giới thiệu về nghệ thuật sơn mài Việt Nam trong nước và nước ngoài; tổ chức Liên hoan Nghệ thuật sơn mài quốc tế tại Việt Nam.
Theo quyết định, các cơ quan chỉ đạo đề án gồm: Bộ VHTTDL; Bộ Công thương; Bộ NNPTNT; Bộ Ngoại giao; Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm; Hội Mỹ thuật Việt Nam; Hiệp hội Làng nghề Việt Nam… phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố: Hà Nội, TP HCM, Phú Thọ, Bình Dương, Bắc Ninh... tổ chức thực hiện.
Có nhiều hạng mục cần chuẩn hóa được đưa ra ở mục “Tiêu chuẩn về nguyên liệu làm sản phẩm sơn mài” trong đề án. Chẳng hạn, các nguyên liệu như sơn vẽ (sơn chín), sơn tổng hợp (với đồ thủ công mỹ nghệ), các màu tự nhiên chiết xuất từ thần sa, chu sa, bột màu vẽ sơn mài… đều có tên trong danh sách nguyên liệu cần xây dựng tiêu chuẩn này. Vàng quỳ, bạc quỳ, vóc (cốt), dụng cụ vẽ cũng thuộc danh sách trên.
Cũng theo đề án, từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ có rất nhiều hoạt động quảng bá, tuyên truyền giới thiệu về Nghệ thuật sơn mài Việt Nam trong nước và nước ngoài: Triển lãm, work shop, hội thảo, tọa đàm, trình diễn, du lịch khám phá, trải nghiệm, thực hành sáng tạo nghề sơn mài truyền thống Việt Nam, các hội chợ tranh và sản phẩm sơn mài Việt Nam.
Ngoài ra còn có xuất bản sách, dựng phim tài liệu, làm video clip, thiết kế, sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm quà tặng lưu niệm từ sơn mài Việt Nam, tổ chức liên hoan nghệ thuật Sơn mài quốc tế tại Việt Nam 2 năm/lần…
Kỹ thuật sơn mài có 3 công đoạn chính: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng.
Theo các nghệ nhân, để làm ra một tấm vóc, tức là phần khung thô của một bức tranh sơn mài, phải trải qua 12 nước sơn, mùn cưa, bó đất rồi lại sơn mới tạo ra được phần nền đen bóng. Tiếp theo là công đoạn trang trí họa tiết cho tranh sơn mài. Rồi đến công đoạn mài và đánh bóng cũng vô cùng tỉ mỉ. Nghệ nhân và họa sĩ thời trước sử dụng lá chuối khô làm giấy ráp.
Nghề làm sơn mài gồm nhiều công đoạn, mỗi công đoạn đều đòi hỏi người làm nghề phải thật kiên nhẫn, tỉ mỉ, chau chuốt, nâng niu.