Chùa ở Huế

KHÔI NGUYÊN 15/12/2021 09:00

Cố đô Huế không chỉ nổi tiếng với những thành quách, đền đài, lăng tẩm, Huế còn mê hoặc du khách bởi một hệ thống chùa chiền dày đặc. Chùa ở Huế thường đơn giản nhưng trang nghiêm và thanh thoát với những vườn cây xanh ngát bao quanh.

Hiện ở Huế có hơn 300 ngôi chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có những ngôi Tổ đình, cổ tự nổi tiếng từ hàng trăm năm như chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Báo Quốc, Từ Hiếu, Quốc Ân, Trúc Lâm, Thiền Tôn, Trà Am, Vạn Phước…

Đáng chú ý, chùa ở Huế do nhiều tầng lớp trong xã hội xây dựng. Vì vậy chùa Huế có các loại sau: Chùa vua: chùa được các vua xây dựng nên hoặc trùng tu một ngôi chùa đã có ở một nơi thắng cảnh tối ưu nhưng không biết chùa do ai xây dựng và có từ bao giờ như: chùa Thiên Mụ được Chúa Nguyễn trùng kiến năm 1601, chùa Thánh Duyên do vua Minh Mạng trùng kiến năm 1838, chùa Diệu Đế do vua Thiệu Trị xây dựng năm 1844, chùa Từ Hiếu do vua Tự Đức trùng kiến năm 1848. Chùa Tổ: do các vị sư Tổ trong Phật giáo lập nên thường chọn nơi núi non xa vắng, cảnh trí u nhàn. Chùa dân lập: lúc đầu do một người trong làng đứng ra lập, sau đó cúng lại như chùa Bà La Mật do bà Thanh Trất Từ Thiên phu nhân lập năm 1886 ở làng Nam Phổ: Chùa Khuôn: do các khuôn hội Phật giáo Tịnh độ lập nên làm nơi sinh hoạt cho các hội viên. Chùa làng: loại chùa này xuất hiện từ lâu, có trước triều Nguyễn rất xa. Cách thờ tự của chùa làng có nét riêng biệt với các ngôi chùa khác, chủ yếu thờ cả ba đạo Phật, Lão, Khổng.

Tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ.

Nói về hệ thống chùa chiền ở Huế, giới nghiên cứu cho rằng: Cố đô Huế trông giống như một khu vườn lớn, trong đó có những khoảng không gian uy nghi, quan cách, lộng lẫy của những cung điện, đền đài, có những khoảng êm đềm, ấm cúng, thân thiết của những nếp nhà vườn, ngôi đình dân dã và cũng có cả những khoảng tĩnh tại, thanh thoát, lặng lẽ của những cảnh chùa. Ngôi chùa đó gắn liền vào tổng thể kiến trúc Huế, hài hòa như chính đạo Phật đã hòa tan vào lòng đời, lòng người xứ Huế. Bởi vậy đến với ngôi chùa Huế cũng chính là tìm về một phần quan trọng làm nên văn hóa xứ Huế.

Chùa Huế thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói… Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng trong việc xây chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là “công đức” để hưởng phúc khi đem vật liệu và tiền bạc cúng cho nhà chùa.

Cũng rất dễ nhận thấy, chùa ở Huế mang những nét kiến trúc rất đẹp, giao thoa giữa kiến trúc cung đình với kiến trúc dân gian. Trước hết, giống nhau trong việc bố trí cảnh quan, cỏ cây theo một thức rất Huế. Hầu hết các ngôi chùa Huế đều chọn địa điểm tọa lạc gắn liền với núi, sông suối. Điểm đặc biệt, kiến trúc chùa Huế được thiết kế tiền đường và điện thờ theo kiểu “trùng lương” hay “trùng thiềm” là kiểu nhà đặc trưng của Huế.

Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, không gian khác nhau. Ở miền Bắc chùa kiểu chữ Đinh phổ biến, ở miền Nam kiểu chữ Tam. Trong khi đó, chùa Huế đa số xây dựng theo kiểu kiến trúc chữ Khẩu. Chùa hình chữ Khẩu đặc trưng về phong cách kiến trúc của chùa chiền xứ Huế.

Từ ngoài vào trong chùa Huế được xây dựng theo thứ tự: cổng, sân vườn, lầu chuông, chính điện, tăng xá, nhà khách, hậu đường. Cổng chùa Huế thường xây dựng theo kiểu tam quan – một ngôi cổng có ba cửa ra vào, có nhiều chùa hai tam quan, một tam quan. Đặc biệt, có một số chùa xây dựng bốn trụ cột dùng để tạo tam quan như chùa Thiên Mụ, chùa Kim Sơn… mỗi trụ cột có một vế đối viết bằng chữ Hán. Qua cổng tam quan là đến sân chùa. Trong kiến trúc đình chùa Huế, sân chùa thường đặt các chậu cây cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh quan thiên nhiên cho ngôi chùa.

Chùa Từ Đàm ở Huế.

Phần trang trí trong nội thất của chùa Huế cũng đáng chú ý. Tầng cao nhất của bàn thờ ở chính điện, thường có ba pho tượng gọi là “Tam thế Phật” tức là các vị Phật của ba thời gian: Phật quá khứ là Phật A Di Đà; Phật hiện tại là Thích Ca Mầu Ni; Phật tương lai là Phật Di Lặc. Trên bàn thờ chính ở gian giữa chính điện thường thấy pho tượng Phật Thích Ca đản sinh và tượng Chuẩn Đề nhiều, phía dưới bàn kinh và chuông mỏ. Gian bên trái thờ tượng Bồ Tát Quan Thế Âm; gian bên phải thờ tượng Bồ Tát Đại Thế Chí. Ngoài ra, còn có một số chùa gian ở giữa thờ Phật; gian bên trái thờ thánh; gian bên phải thờ Địa Tạng; có chùa thờ tam giáo như: Thích giáo của Phật Thích Ca Mâu Ni, Nho giáo của Khổng Tử, Đạo giáo của Lão Tử.

Nóc chùa thường trang trí các hoa văn họa tiết rồng phượng với các bức “lưỡng long chầu mặt nguyệt”, “lưỡng long chầu Pháp luân”, các vật linh quy, phụng, lân, hoa sen. Mái chùa lợp ngói âm dương có màu sắc theo thời kỳ kiến trúc cung đình của các triều vua chúa thời đó, mái chia hai lớp để bớt vẻ nặng nề.

Chính điện trong kiến trúc đình chùa Huế có 3 – 5 gian, 2 chái, cắt mái 2 tầng. Chái nhà hai bên dành cho phương trượng, trụ trì, giám tự. Tiếp theo chính điện là khoảng sân trong bao quanh bởi thiền đường và tăng xá. Vườn của chùa trồng cây ăn quả, bố trí tháp mộ các vị Tổ, trụ trì, tăng chúng; sau vườn là khu canh tác, trồng hoa màu.

Có vẻ đẹp uy nghiêm mà thanh tịnh, hơi u buồn, kiến trúc chùa Huế là kiểu kiến trúc đặc sắc của kiến trúc Việt Nam, mang trong mình dấu ấn lịch sử, di tích văn hóa vô cùng có giá trị.

KHÔI NGUYÊN