6 nhóm chính sách mới của Luật Dầu khí sửa đổi
Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho rằng, cần có chương riêng quy định đối với nhà đầu tư, tránh những rủi ro có thể xảy ra khi đầu tư ra nước ngoài.
Chiều 14/4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Dầu khí (sửa đổi). Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, thời gian qua hoạt động dầu khí cũng đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập. Một số vấn đề thực tế phát sinh mang tính đặc thù của hoạt động dầu khí nhưng chưa được quy định cụ thể bởi Luật Dầu khí và các văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật hoặc quy định chưa phù hợp với thực tiễn đã có những thay đổi.
Ngoài ra, một số vấn đề được quy định trong Luật Dầu khí nhưng chưa đồng bộ với các quy định pháp luật khác. Ông Diên nhấn mạnh: “Việc xây dựng Luật Dầu khí (sửa đổi) là hết sức cần thiết, nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nhà nước, loại bỏ rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho nhà đầu tư, góp phần cải thiện mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực dầu khí”
Theo ông Diên, dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) gồm 9 Chương 56 điều. Nội dung của dự thảo Luật giải quyết 6 nhóm chính sách đã được Chính phủ trình Quốc hội thông qua (Nghị quyết số 17/2021/QH15).
Đề cập đến 6 nhóm chính sách mới, ông Diên cho hay: Thứ nhất là chính sách về bổ sung và hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng dầu khí. Thứ hai, chính sách quy định về điều tra cơ bản và dầu khí và trình tự, phê duyệt các bước triển khai hoạt động dầu khí, dự án dầu khí gồm các giai đoạn tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí.
Chính sách thứ ba theo ông Diên là quy định khung cho việc thực hiện dự án dầu khí theo chuỗi từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, xử lý. Thứ tư là chính sách về ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án dầu khí theo lô dầu khí thông qua hợp đồng dầu khí.
“Thứ năm là chính sách quy định về công tác kế toán, kiểm toán, quyết toán và xử lý chi phí trong hoạt động dầu khí. Thứ sáu là chính sách quy định khung việc cho phép bên thứ ba tiếp cận các cơ sở hạ tầng có sẵn của ngành dầu khí và nghĩa vụ chia sẻ công trình dầu khí, cơ sở hạ tầng sẵn có nhằm sử dụng tối ưu, hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở sẵn có, tránh lãng phí trong đầu tư”- ông Diên cho hay.
Thẩm tra dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Dầu khí (sửa đổi) để đáp ứng yêu cầu như Tờ trình của Chính phủ đã nêu. Tuy nhiên, về ưu đãi trong hoạt động dầu khí, ông Thanh đề nghị xem xét, rà soát kỹ lưỡng các quy định về điều kiện để áp dụng ưu đãi, ưu đãi đặc biệt bảo đảm chặt chẽ, rõ ràng, khả thi; không quy định tại khoản 4 Điều 40 về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến mức thuế suất.
Ngoài ra, ông Thanh đề nghị tiếp tục nghiên cứu, quy định về các hình thức, cơ chế ưu đãi đầu tư khác, nhất là trong bối cảnh thời gian tới nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng mức thuế suất tối thiểu thuế thu nhập doanh nghiệp toàn cầu.
Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho rằng, cần phải có chương riêng quy định đối với nhà đầu tư, để tránh những rủi ro có thể xảy ra khi đầu tư ra nước ngoài. “Ban soạn thảo cần làm sâu sắc thêm quan điểm dự thảo luật phải đảm bảo tính minh bạch rõ ràng, chặt chẽ. Từ đó phòng ngừa được các sơ hở, có tác dụng phòng chống tham nhũng, tiêu cực” - ông Cường cho hay.
Theo ông Hoàng Thanh Tùng, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, một trong những vấn đề lớn của dự án luật cần xử lý đó là mối quan hệ của Luật Dầu khí với các luật có liên quan như: đầu tư, đầu tư công, PPP, đấu thầu, xây dựng. Bởi thực tế trong các luật hiện hành đã có quy định điều chỉnh, ví dụ như Luật Đầu tư ban hành 2020 cũng có những điều khoản quy định về dầu khí. Do đó cần rà soát, xử lý một cách đồng bộ.
Ông Tùng cho rằng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật lần này chỉ là với hoạt động dầu khí trên lãnh thổ Việt Nam, trên đất liền, trên biển và thềm lục địa chứ không áp dụng với hoạt động đầu tư dầu khí ra nước ngoài. Với việc áp dụng luật nước ngoài và thông lệ quốc tế thì phải rà soát Luật Dân sự. Việc áp dụng luật nước nào là cần thiết thì có thể thỏa thuận, nếu pháp luật Việt Nam cho phép.
Ông Lê Quang Huy, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, Luật Dầu khí đã trải qua một số lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2000, 2008. Điều này cho thấy Đảng, Chính phủ, Quốc hội hết sức quan tâm và luôn luôn theo dõi cũng như có những điều chỉnh cần thiết khi trong thực tiễn cần thiết.
Tuy nhiên ông Huy cho rằng, thông tin về dữ liệu trong quá trình điều tra cơ bản cần phải được thẩm định, lưu trữ, quản lý thống nhất, chia sẻ phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh. “Bên cạnh đó, việc thăm dò dầu khí theo xu hướng ngày càng trở nên khó hơn, không thể nào gần bờ được nữa. Vì vậy, việc ứng dụng khoa học và công nghệ cần phải đẩy mạnh hơn nữa. Trong thời gian qua, Tập đoàn dầu khí quốc gia đã rất tích cực trong các hoạt động nghiên cứu, sử dụng nhiều nguồn lực để có những đề tài, dự án rất tốt. Trong Luật Dầu khí từ năm 1993 cũng đã quy định rất rõ việc ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến nhất, ngoài ra một số chính sách khác cũng có nhưng chưa thực sự rõ ràng. Vì vậy trong thời gian tới các công nghệ khoan, thu hồi, xử lý dầu thô, các loại năng lượng dầu khí là một nội dung cần thiết cần đưa vào luật” - ông Huy nói.