Sức mạnh tinh thần cho ngày thống nhất
Việt Nam ta không những thống nhất về non sông bờ cõi mà về dân tộc, lịch sử văn hóa cũng luôn là một khối thống nhất suốt mấy ngàn năm. Sự đa dạng về phong tục, tập quán từng vùng, từng địa phương tạo nên sự phong phú, hấp dẫn nhưng về nếp cảm, nếp nghĩ cũng như mọi khát vọng về hòa bình, hạnh phúc của người Việt thì ở đâu cũng là một.
Việt Nam có rất nhiều làn điệu dân ca hay, in đậm dấu ấn độc đáo từng vùng miền gắn với nhiều dân tộc. Chẳng biết tự bao giờ mà rất nhiều làn điệu dân ca của Nam Bộ, miền Trung và Tây Nguyên đã ngấm rất sâu vào trái tim của người dân cả nước.
Nếu người xứ Bắc tự hào có dân ca quan họ Bắc Ninh, hát xoan, ghẹo Phú Thọ, Vĩnh Yên, các làn điệu chèo miền đồng bằng, các điệu hò ở Thanh Hóa, hát ví dặm Nghệ - Tĩnh và hàng trăm làn điệu dân ca của nhiều dân tộc ít người vùng cao Việt Bắc, Tây Bắc... thì họ còn rất mê đắm với những điệu lý, hò ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và luôn bị cuốn hút vào những âm hưởng dân ca vùng đất đỏ núi rừng Tây Nguyên.
Có lẽ không người Việt Nam nào lại không thuộc hoặc biết điệu ru con Nam Bộ: “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ. Năm (ơ) canh chầy... Nín đi con, ngủ đi con. Hỡi chàng là chàng ơi!..”. Và điệu ru của người dân tộc Xê Đăng ở Tây Nguyên: “Con ơi con nín đi con, lắng nghe xa xa suối thở than. Con mẹ nằm ngoan ngoan. Mùa thu mang theo bao nhiêu gió êm êm, gió đưa tiếng ru con...”. Rồi thì cả người lớn lẫn trẻ em đều thích thú điệu Bắc kim thang của Nam Bộ: “Bắc kim thang cà lang bí rợ. Cột qua kèo là kèo qua cột...”.
Nhưng làn điệu Lý kéo chài, Lý cái mơn, Lý con sáo, Lý chiều chiều, cây ngô đồng, rồi hò mái nhì, mái đẩy ở Huế... từ bao đời đã tỏ rõ sức sống trong nhiều thế hệ người Việt Nam. Không thể kể hết, chỉ biết đó là cả một kho tàng vô cùng phong phú dân ca các vùng địa lý phía Nam đã trở nên rất đỗi thân quen như là hơi thở, cuộc sống của người dân xứ Bắc.
Trong các liên hoan ca nhạc, nhất là chuyên về dòng dân gian đã được thực hiện trên đất Bắc kể từ năm 1954 mà thiếu vắng các làn điệu dân ca phía Nam thì kể như mất hẳn sức hấp dẫn, bữa tiệc âm nhạc ấy trở nên thiếu vị, giảm sút sức lôi cuốn.
Ngoài dân ca thì dân vũ cũng là một loại hình nghệ thuật dân gian được người Việt ta rất ưa thích. Những điệu kéo chài, chàm rông, đoa pụ (đội nước), rông chiêng, rồi múa của người Vân Kiều, Pa Kô luôn làm mê đắm lòng người. Các nghệ sĩ nhân dân trong lĩnh vực múa như Đặng Hùng (Thuận Hải), Y BRơm (Tây Nguyên), Thái Ly, Phùng Nhạn, Thuý Quỳnh, Minh Tiến... đã có nhiều công sức và thành tựu trong việc nâng cao nhiều điệu dân vũ trở thành những tác phẩm múa đặc sắc.
Sự đa dạng về phong tục, tập quán từng vùng, từng địa phương tạo nên sự phong phú, hấp dẫn nhưng về nếp cảm, nếp nghĩ cũng như mọi khát vọng về hòa bình, hạnh phúc của người Việt thì ở đâu cũng là một. Đó là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, Tổ quốc, yêu lao động, sáng tạo, đức tính nhân hậu, vị tha, luôn “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng”. Người Việt bình dị mà đậm đà, chân phương mà tinh tế. Tất cả những phẩm chất, những đặc điểm tâm lý nhất quán ấy của đồng bào các dân tộc, các địa phương trên đất Việt đều được biểu hiện rất rõ trong kho tàng văn nghệ dân gian nói chung, dân ca, dân vũ nói riêng.
Những giá trị tinh thần ấy luôn trường tồn. Đó là lẽ tự nhiên đã được chứng minh qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Cũng thật độc đáo và thú vị khi càng ở vào những thời điểm cam go, khốc liệt nhất của cuộc đương đầu giữa dân tộc ta với kẻ thù xâm lược, những bài ca, vần thơ cùng các tác phẩm văn nghệ lại nở rộ.
Và từ miền Nam, những tác phẩm hay nhất đã đến được với người dân miền Bắc. Thật giống như ánh sáng sẽ lan tỏa, mùi thơm không thể đậy lại mà mất đi được, mưa sẽ thấm vào lòng đất. Những năm tháng khói lửa chiến tranh mịt mùng, giữa bom rơi đạn nổ, từ chiến trường khốc liệt, những bài ca sâu sắc nhất làm nức lòng người của các nhạc sĩ cách mạng đã xuất hiện và bay ra miền Bắc.
Ngày ấy, chúng ta vẫn gọi đó là những sáng tác từ tuyến đầu. Làm gì có in ấn, xuất bản, cũng đâu phải được thu và phát trên làn sóng, càng không có những sân khấu hoành tráng ánh điện như hôm nay mà hàng trăm bài hát hay nhất đã ra Bắc, đậu lại trong trái tim hàng triệu con người để cổ vũ, động viên họ vượt qua muôn ngàn gian khó, hoàn thành sứ mạng “hậu phương lớn”.
Đời sống tinh thần mỗi người Việt sẽ còn mãi mãi ghi nhớ âm điệu vừa ngọt ngào, thiết tha, lại vừa hào hùng, sôi động của rất nhiều bài hát hay: “Bài ca may áo”, “Xuân chiến khu”, “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” (Xuân Hồng); “Qua sông” (Phạm Minh Tuấn); “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn” (Lư Nhất Vũ); “Giải phóng miền Nam”, “Hành khúc giải phóng”, “Giờ hành động”, “Bài ca giải phóng quân”, “Tiến về Sài Gòn” (Huỳnh Minh Siêng), “Mỗi bước ta đi”, “Bài ca đội nữ tiếp vận” (Thuận Yến), “Gửi anh đi đầu quân”, “Nhớ anh giải phóng quân” (Nguyễn Thơ), “Trên đường tiếp vận”, “Tiếng cồng giải phóng, tiếng cồng chiến thắng” (Y Na)...
Tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam luôn hướng về miền Nam ruột thịt. Đó là một tình cảm hết sức tự nhiên như của những người trong một gia đình vậy. Có lẽ chính vì thế mà mọi sản phẩm tinh thần có giá trị từ miền Nam, đặc biệt là âm nhạc - loại hình nghệ thuật có nhiều ưu thế trong việc lan tỏa vào công chúng - đều nhanh chóng đến được với miền Bắc.
Ngược lại, tại miền Nam, từ thành thị đến nông thôn, bà con vẫn thường xuyên nghe được những bài hát làm nức lòng mình từ miền Bắc qua làn sóng phát thanh. Những giai điệu rộn ràng, ngọt ngào đầy hứng khởi từ hậu phương lớn đã là điểm tựa, chỗ dựa tinh thần thiêng liêng cho bà con.
Cho đến hôm nay, những bài hát một thời xuất hiện ở miền Bắc vẫn còn sống mãi trong tâm khảm đồng bào miền Nam: “Câu hò bên bờ Hiền Lương” (Hoàng Hiệp - Đằng Giao), “Tình ca” (Hoàng Việt), "Bài ca hy vọng" (Văn Ký), “Những ánh sao đêm” (Phan Huỳnh Điểu), “Hà Nội, Huế, Sài Gòn” (Hoàng Vân), “Anh vẫn hành quân”, “Đường chúng ta đi” (Huy Du - Hoàng Trung Thông), “Những cô gái quan họ” (Phó Đức Phương), “Bài ca 5 tấn” (Nguyễn Văn Tý), “Ta tự hào đi lên, ôi Việt Nam” (Chu Minh – Hoàng Trung Thông)… và nhiều bài khác.
Cũng cần thấy rằng, rất nhiều bài hát hay nói đến cảnh đẹp, truyền thống cách mạng của nhiều tỉnh, thành phố, địa phương trên cả nước trở thành những tỉnh ca, địa phương ca không chỉ khiến người nơi đó yêu thích mà đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ. Ai cũng thấy vùng đất đó rất thân quen với mình mặc dù có thể chưa một lần đặt chân tới. Đó chính là chỉ dấu về sự thống nhất trong tâm hồn, tinh thần của người dân Việt Nam trên mọi miền đất nước.