Thừa Thiên - Huế: Dự án trong khu 'đất vàng' chậm tiến độ
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế có nhiều dự án đã được phê duyệt quy hoạch, nhưng trong quá trình triển khai lại chậm tiến độ hoặc thi công dang dở rồi bỏ hoang nhiều năm, gây lãng phí tài nguyên, cũng như ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của địa phương.
Nhiều dự án xây dựng trên “đất vàng” chậm tiến độ
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thừa Thiên - Huế, hiện nay qua rà soát trên địa bàn toàn tỉnh có khoảng gần 63 dự án cần rà soát tiến độ. Nhiều dự án nằm trên những khu “đất vàng”, sau khi được cơ quan chức năng phê duyệt, trong quá trình triển khai vẫn chậm tiến độ. Thậm chí, một số dự án thi công xong phần thô rồi bỏ hoang, gây lãng phí tài nguyên.
Nằm trên trục đường Hà Nội - Lý Thường Kiệt - Nguyễn Tri Phương - Ngô Quyền - Hoàng Hoa Thám, dự án Tổ hợp tòa nhà làm việc (số 4, đường Hà Nội) do Tập đoàn VNPT trúng đấu giá khu đất và ủy quyền Viễn thông Thừa Thiên - Huế thực hiện dự án. Dự án này được UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/4/2012 với tổng vốn đầu tư 58,6 tỷ đồng.
Theo Bản cam kết của đơn vị được ủy quyền thực hiện, dự án dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng quý I/2021. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, dự án đã xây dựng cơ bản xong phần thô 7 tầng nổi và 1 tầng hầm nhưng chậm tiến độ đáng kể so với cam kết.
Đối diện với dự án Tổ hợp tòa nhà làm việc của Tập đoàn VNPT là dự án Bệnh viện chuyên khoa quốc tế Huế (nằm tại số 2 Nguyễn Tri Phương, TP Huế) do Công ty cổ phần Bệnh viện Đa khoa quốc tế Huế làm chủ đầu tư).
Dự án được UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cấp Quyết định chủ trương đầu tư lần đầu năm 2017, điều chỉnh lần thứ nhất năm 2018. Diện tích sử dụng đất là 2.577,8m2.
Theo thiết kế dự án, Bệnh viện Đa khoa quốc tế Huế được đầu tư đạt tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Bệnh viện có công suất 260 giường bệnh, các khu khám chữa bệnh và phục hồi chức năng; 15 phòng lưu trú tiêu chuẩn cao cấp phục vụ chỗ ở cho người nhà bệnh nhân và khu dịch vụ ăn uống, hội họp... có tổng vốn đầu tư khoảng 400 tỷ đồng.
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thừa Thiên - Huế, theo tiến độ cam kết, dự án này phải hoàn thành đưa vào hoạt động ở quý I/2021. Tuy nhiên, đến nay dự án vẫn bị chậm tiến độ.
Do đó, vừa qua dự án này đã được UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cho phép gia hạn tiến độ sử dụng đất để tiếp tục thực hiện 24 tháng kể từ ngày 22/11/2021.
Ngoài những dự án nói trên, hiện nay trên toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế còn có một số dự án chậm tiến độ trong nhiều năm như: Dự án Nhà máy chế biến tinh bột sắn huyện A Lưới của Công ty cổ phần Chế biến nông sản A Lưới; Dự án Khu nghỉ dưỡng Bãi Chuối Việt Nam của Công ty TNHH Một thành viên Bãi Chuối (Việt Nam); dự án Khu nghỉ dưỡng Làng Xanh Lăng Cô của Công ty Liên doanh Làng Xanh - Lăng Cô…
Có nhiều nguyên nhân
Ông Phan Quốc Sơn - Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết, có nhiều nguyên nhân khiến một số dự án đã và đang triển khai trên địa bàn tỉnh chậm tiến độ.
Trong đó, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng (GPMB) còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Các quy định của pháp luật liên quan tới công tác đền bù, GPMB thay đổi, khung giá đền bù có khoảng cách lớn so với giá cả thị trường, đơn giá đền bù được điều chỉnh hàng năm dẫn tới phải thường xuyên tính toán bổ sung. Việc bố trí kinh phí và nguồn lực cho công tác bồi thường GPMB còn chậm, chưa đáp ứng đúng nhu cầu.
Ngoài ra, những diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 kéo dài đã làm ảnh hưởng chung đến tiến độ, tình hình triển khai dự án đầu tư, đặc biệt trong việc mua sắm máy móc, thiết bị nhập khẩu từ nước ngoài cũng như khả năng tiếp cận nguồn vốn vay do suy thoái kinh tế.
Mặt khác, các nhà đầu tư khi đề xuất dự án đầu tư do chưa nắm rõ quy trình, thủ tục trong quá trình triển khai dự án nên đề xuất tiến độ dự án chưa phù hợp, dẫn đến nhiều dự án chậm tiến độ, phải điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án nhiều lần; một số nhà đầu tư chưa đủ kinh nghiệm và năng lực triển khai so với dự án đề xuất.
Ông Sơn cũng cho biết, để nâng cao chất lượng môi trường đầu tư của địa phương, thời gian tới các cơ quan chức năng sẽ tăng cường công tác rà soát, phân loại các dự án chậm tiến độ để đề xuất phương án xử lý cụ thể theo tính chất và tình hình triển khai thực tế từng dự án về cơ sở pháp lý, điều kiện triển khai, lộ trình thực hiện, xử lý các vấn đề liên quan…