Cẩn thận với bệnh đau mắt đỏ
Theo các chuyên gia y tế, bệnh viêm kết mạc hay còn gọi là đau mắt đỏ có nguy cơ lây lan nhanh và dễ bùng phát thành dịch nếu không được cách ly kịp thời. Thời gian gần đây, tại Bệnh viện Mắt Trung ương lượng bệnh nhân đi khám đau mắt đỏ tăng đột biến.
Theo ông Trần Đắc Phu - nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng (Bộ Y tế), hiện nay thời tiết đang chuyển mùa, diễn biến phức tạp khiến khá nhiều địa phương xuất hiện bệnh đau mắt đỏ. Tuy nhiên, đến nay chưa có vaccine phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và những người bị đau mắt đỏ rồi vẫn có thể bị nhiễm lại chỉ sau vài tháng khỏi bệnh. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh đau mắt đỏ là do virus Adenovirus, hoặc do vi khuẩn như liên cầu, tụ cầu, phế cầu gây ra.
Về nguy cơ lây bệnh, PGS.TS Cung Hồng Sơn - Phó Giám đốc Bệnh viện Mắt Trung ương cho biết, bệnh đau mắt đỏ có thể lây qua đường hô hấp, nước mắt, nước bọt, bắt tay; cầm, nắm, chạm vào những vật dụng nhiễm nguồn bệnh như tay nắm cửa, nút bấm cầu thang, điện thoại; đồ vật, đồ dùng cá nhân của người bệnh như khăn mặt, chậu rửa mặt…; dùng chung đồ dùng sinh hoạt như khăn mặt, gối...
Đau mắt đỏ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, vào bất cứ thời điểm nào trong năm, đặc biệt, sau mỗi đợt mưa kéo dài, dịch đau mắt đỏ lại xuất hiện. Đây là thời điểm thuận lợi cho virus phát triển mạnh.
Các chuyên gia nhãn khoa ở Bệnh viện mắt Trung ương cũng cảnh báo, một số trường hợp nặng gây ra viêm kết mạc có giả mạc. Giả mạc là màng viêm màu trắng đục, bám vào mặt sau của mi mắt và chỉ nhìn thấy khi lật mi lên. Khi có giả mạc chứng tỏ sức đề kháng của mắt đã yếu, bệnh đang có chiều hướng nặng thêm và độc tính của virus cao. Những trường hợp này mắt sưng rất nặng và kéo dài do giả mạc bít vào mặt sau mắt làm cho thuốc không ngấm vào được tổ chức bệnh. Do vậy cần có sự can thiệp của bác sĩ giúp bóc bỏ lớp màng để thuốc phát huy tác dụng.
Bệnh sẽ diễn biến phức tạp hơn nhiều nếu giả mạc không được bóc đi. Khi khỏi, giả mạc bị xơ hóa, co rút lại làm cho bề mặt sau kết mạc mi dúm dó, gây cạn cùng đồ làm mắt khó liếc nhìn về các phía.
Theo ông Trần Đắc Phu, người bệnh có biểu hiện chính là mắt đỏ và có ghèn, thường đỏ một mắt trước, sau đó lan sang mắt thứ hai, cảm thấy khó chịu ở mắt, sau đó cộm như có cát trong mắt, mắt nhiều dử, buổi sáng ngủ dậy hai mắt khó mở do nhiều dử dính chặt, dử mắt có thể có màu xanh hoặc màu vàng tùy tác nhân gây bệnh.
Mi mắt sưng nề, mọng, mắt đỏ (do cương tụ mạch máu), đau nhức, nổi cộm, chảy nước mắt. Một số trường hợp viêm kết mạc có giả mạc (giả mạc là lớp màng dai trắng khi lật mi lên mới thấy) thường lâu khỏi hơn các trường hợp khác. Khi bị đau mắt đỏ, người bệnh cũng có thể có thêm các triệu chứng như mệt mỏi, sốt nhẹ, đau họng, ho, xuất hiện hạch ở tai.
Thông thường người bệnh vẫn nhìn thấy bình thường, thị lực không bị suy giảm nhưng nếu để bệnh nặng, mắt người bệnh có thể bị phù đỏ, có màng trong mắt, xuất huyết dưới kết mạc… thì hậu quả sẽ lớn hơn.
BS Cung Hồng Sơn cảnh báo, bệnh còn có các biểu hiện khác như chảy nhiều nước mắt; mẩn đỏ, ngứa và sưng mắt; cảm giác đau, cộm liên tục; có dịch màu trắng đục (do nhiễm virus hoặc dị ứng); có dử mắt màu vàng và xanh lục (do nhiễm khuẩn). Thông thường người bệnh vẫn nhìn thấy bình thường, thị lực không bị suy giảm, nhưng nếu để bệnh nặng, mắt có thể bị phù đỏ, có màng trong mắt, xuất huyết dưới kết mạc… thì sẽ gây khó khăn hơn trong điều trị.
Theo BS Sơn, khi thấy những dấu hiệu của bệnh, cần đi khám bác sĩ chuyên khoa để phát hiện đúng bệnh vì viêm đau mắt đỏ rất dễ nhầm với viêm màng bồ đào cấp và nếu diễn biến nặng có thể trở thành bệnh viêm mủ nội nhãn. Tiên lượng của viêm mủ nội nhãn rất nặng và khả năng giữ được thị giác rất là ít.
Bệnh đau mắt đỏ là bệnh rất dễ mắc, dễ lây lan trong cộng đồng và có thể gây thành dịch. Khi có người bị bệnh hoặc nghi bị bệnh đau mắt đỏ, người bệnh cần lau rửa ghèn, dử mắt ít nhất 2 lần/ngày bằng khăn giấy ẩm hoặc bông, lau xong vứt bỏ khăn, không sử dụng lại; không tra vào mắt lành thuốc nhỏ của mắt đang bị nhiễm khuẩn, đeo kính mát cho mắt.
Người bệnh cần được nghỉ ngơi, cách ly, dùng thuốc theo đơn của thầy thuốc. Không tự ý mua thuốc nhỏ mắt. Không dùng thuốc nhỏ mắt của người khác. Ngoài ra, mầm bệnh có khả năng sống ở môi trường bình thường vài ngày và người bệnh vẫn có thể là nguồn lây bệnh sau khi đã khỏi bệnh một tuần.
Cách phòng bệnh tốt nhất là thực hiện triệt để các biện pháp vệ sinh và cách ly với người bệnh. Để phòng bệnh, cần chủ động thực hiện các biện pháp: Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, sử dụng nước sạch. Không đưa tay lên dụi mắt, mũi, miệng. Không dùng chung vật dụng cá nhân như lọ thuốc nhỏ mắt, khăn mặt, kính mắt, khẩu trang…