Hội thảo khoa học 50 năm chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng
Sáng ngày 20/5, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp Tỉnh ủy Nghệ An đã tổ chức Hội thảo khoa học “50 năm chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng thắng lợi và bài học kinh nghiệm”.
Tham dự Hội thảo ngoài các đại biểu của Bộ Quốc phòng, đại diện nước bạn Lào, lãnh đạo tỉnh Nghệ An còn các nhà khoa học, chuyên gia quân sự và 12 nhân chứng tham gia chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng cách đây 50 năm.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, Thượng tướng Lê Huy Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định, Hội thảo “50 năm chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng thắng lợi và bài học kinh nghiệm” là một trong những hoạt động ý nghĩa kỷ niệm “Năm hữu nghị đoàn kết Việt Nam - Lào”, 60 năm Việt Nam và Lào thiết lập quan hệ ngoại giao (5/9/1962 - 5/9/2022).
Đồng thời, cũng là dịp để ôn lại truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất của dân tộc, tinh thần quốc tế vô sản trong sáng và cao cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện thắng lợi phương châm “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình” trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào, góp phần hun đúc tình yêu nước, ý chí tự lực, tự cường cho thế hệ trẻ hai nước Việt Nam - Lào hôm nay và mai sau.
Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 của liên quân Việt-Lào, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn có ý nghĩa chiến lược, tiêu diệt lớn bộ phận sinh lực quan trọng của địch, đập tan âm mưu đánh chiếm bàn đạp chiến lược Cánh Đồng Chum.
Bảo vệ thành công vùng giải phóng, phối hợp kịp thời, chặt chẽ và hiệu quả với các chiến trường miền Nam Việt Nam trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, góp phần đánh bại thêm một bước cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và làm phá sản “học thuyết Nixon”.
Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã khẳng định chiến dịch phòng ngự là một hình thức tất yếu trong chiến tranh giải phóng, làm phong phú thêm sự phát triển lý luận và thực tiễn nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Theo đó, vào tháng 2/1972 thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương của ta và bạn Lào đã thông báo cho Bộ tư lệnh (BTL) chiến dịch Cánh Đồng Chum - Mường Sủi về chủ trương: Ngay sau khi kết thúc chiến dịch tiến công Cánh Đồng Chum - Mường Sủi, lực lượng ta sẽ chuyển vào phòng ngự chiến dịch. Đầu tháng 4/1972, BTL chiến dịch nhận nhiệm vụ nhanh chóng chuyển vào phòng ngự, sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công lớn của địch.
Sau một thời gian nỗ lực tiến hành công tác chuẩn bị, đến ngày 20/5/1972, ta đã xây dựng thế trận phòng ngự chiến dịch liên hoàn, vững chắc và hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, sẵn sàng bước vào tác chiến giành thắng lợi.
Trải qua gần 6 tháng kiên cường phòng ngự và tổ chức phản kích, phản đột kích có hiệu quả, ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn của địch, giữ vững địa bàn chiến lược quan trọng Cánh Đồng Chum.
Dựa vào thế trận phòng ngự được ta và bạn chuẩn bị khoa học, vững chắc, có chiều sâu, bằng cách đánh mưu lược, sáng tạo, trải qua 179 ngày đêm (từ 21/5 - 15/11/1972) liên tục chiến đấu, liên quân Việt Nam - Lào đã đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn, có tính chất chiến lược của địch, giữ vững địa bàn chiến lược quan trọng Cánh Đồng Chum.
Cụ thể, liên quân Việt Nam - Lào đã đánh tổng cộng 244 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 tên địch; đánh bại 8 binh đoàn cơ động, 3 tiểu đoàn quân Thái Lan, bắn rơi 38 máy bay, thu 859 súng các loại… Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972 đánh dấu bước trưởng thành lớn về nhận thức, tư tưởng, kỹ thuật, chiến thuật và cách đánh trong điều kiện phòng ngự kéo dài suốt mùa mưa, khả năng tiếp tế khó khăn.
Việc tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, giữ vững Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trong mùa mưa năm 1972 đã làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho cách mạng Lào, tạo thế phối hợp hiệu quả với chiến trường miền Nam Việt Nam trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
Tại Hội thảo, nhiều đại biểu, nhà khoa học, nhân chứng lịch sử đã tập trung phân tích, luận giải, khẳng định, làm sâu sắc thêm tầm vóc, ý nghĩa của chiến dịch; đánh giá, tri ân, ghi nhận công lao to lớn, sự đóng góp của quân và dân hai nước trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc; củng cố niềm tin và quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân quân trong sự nghiệp đổi mới đất nước.