Ai không nên ăn… vải?
Hiện mùa vải thiều đang chín rộ. Quả vải được bày bán khắp nơi, được xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. Ăn vải tốt cho sức khỏe, nhưng nếu ăn nhiều vải có thể gây tăng đường huyết và nóng trong người.
Ai cần lưu ý?
Quả vải có tên khoa học Litchi sinensis Radlk. (Nephellium litchi Cambess, Euphoria litchi Desf). Thuộc họ Bồ hòn Sapindaceae.
Theo các bác sĩ (BS), có một vài đối tượng cần lưu ý khi ăn vải. Trong đó, bệnh nhân đái tháo đường chỉ nên ăn 4-5 quả vải mỗi lần. Những người có cơ địa hay bị mọc mụn nhọt, rôm sảy, chắp lẹo mắt cũng không nên ăn nhiều các loại quả này, vì hàm lượng đường cao trong vải sẽ làm tăng lượng đường trong máu là môi trường lý tưởng cho các loại vi khuẩn phát triển.
Đặc biệt, phụ nữ có thai cũng cần lưu ý khi ăn vải. Theo BS Bùi Thị Phương, chuyên khoa Sản, Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội, vải là một loại trái cây nhiệt đới có hương vị đặc trưng, vị ngọt dễ chịu có thể khiến một số bà bầu thèm ăn vải trong thai kỳ.
Tuy nhiên, quả vải rất giàu đường, nó có thể gây ra tăng đột biến glucose nếu tiêu thụ quá mức. Ăn nhiều vải trong thời tiết nắng nóng của sẽ gây nóng trong vì vải thiều quá ngọt, chứa nhiều đường. Khi cơ thể bị nóng trong, ăn vải sẽ khiến mụn hay những vết ban đỏ xuất hiện. Bên cạnh đó có thể làm phát sinh một số tình trạng như đau họng, chảy máu mũi, loét miệng…
"Nếu ăn quá nhiều vải, lượng đường dư thừa trong trái cây sẽ khiến lượng đường trong máu tăng đột biến, làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ và khiến tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn nếu thai phụ đã mắc phải bệnh này", BS Phương nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, BS Phương cũng khuyến cáo, ăn quá nhiều vải có thể làm giảm huyết áp đến mức nguy hiểm, gây ra các tình trạng như mờ mắt, chóng mặt, lạnh, buồn nôn, thở nông và mệt mỏi.
BS Bùi Thị Phương cũng đưa ra khuyến cáo, những mẹ bầu có sức khỏe bình thường có thể ăn vải cùng nhiều loại trái cây khác. Tuy nhiên, chỉ nên ăn một lượng vừa phải tương đương với 7-10 trái vải, chia thành nhiều bữa trong ngày. Thời điểm tốt nhất là nên ăn vải sau bữa ăn khoảng 1-2 giờ, không nên ăn khi đói vì có thể gây hiện tượng "say" hay ngộ độc vải.
Những mẹ bầu được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ thì tốt nhất không nên ăn vải. Vì vải chứa một hàm lượng đường cao, nên khi ăn nhiều gan sẽ không thể chuyển hóa hết được fructose, lúc đó lượng đường trong máu tăng cao bất thường có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của mẹ và bé.
Thay vì việc ăn vải, có thể sử dụng nước ép vải khi mang thai, tuy nhiên hãy chọn nước ép vải tươi thay vì nước ép đóng hộp để tránh dư thừa đường.
Có nhiều cách khác nhau để đưa quả vải vào chế độ ăn uống như ăn vải tươi, làm sinh tố hoặc thêm nó vào các món tráng miệng khác với trái cây. Tham khảo ý kiến bác sĩ ngay lập tức nếu bạn cảm thấy bất kỳ dấu hiệu dị ứng hoặc kích ứng sau khi ăn vải.
8 bài thuốc hay
Vải có thể ăn tươi hoặc sấy khô để ăn dần. Trong Đông y, vải có thể được chế biến làm các vị thuốc. Theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS.TS Đỗ Tất Lợi, áo hạt được dùng ăn và làm thuốc từ lâu đời.
Trong tài liệu cổ người ta cho rằng áo hạt có vị ngọt, chua, tính bình hay ôn, không có độc; có tác dụng nuôi huyết, làm hết phiền khát, tiêu thũng, chữa những bệnh mụn nhọt, làm cho đậu mọc dễ, ăn nhiều đẹp nhan sắc nhưng trong tác giả cổ cũng có tác giả lại nói rằng ăn nhiều thì phát nhiệt, chảy máu cam và đau răng (Mậu Hy Ung và Hoàng Cung Tú).
Ngày dùng 10-16g áo hạt khô.
Hạt vải (lệ chi hạch) cũng là một vị thuốc được dùng từ lâu đời. Theo tài liệu cổ, lệ chi hạch có vị ngọt, chát, tính ôn, không có độc; có tác dụng tán hàn, thấp kết khí, là thuốc chữa âm nang sưng đau (thoát vị); còn dùng chữa tiêu chảy ở trẻ em.
Ngày dùng từ 4 đến 8g dưới dạng bột hay sắc uống.
Ngoài ra, người ta còn dùng hoa, vỏ thân và rễ của cây vải sắc lấy nước súc miệng chữa viêm họng, đau răng.
Bên cạnh đó, các thành phần của quả vải cũng có thể chế thành số bài thuốc. Theo GS.TS Phạm Xuân Sinh một số bài thuốc từ vải:
Đau bụng, buồn nôn: Đem hạt vải nướng chín, bóc vỏ ngoài ăn với số lượng khoảng 6 - 8g/lần. Ngày 2 lần.
Đau dạ dày: Hạt vải 3g (chế như trên), mộc hương 2g. Tán bột mịn, uống với nước ấm. Ngày 2-3 lần.
Đau bụng kinh hoặc đau bụng sau sinh: Hạt vải đốt tồn tính 20g, hương phụ 40g tán bột mịn, ngày 6-8g uống với nước muối loãng hoặc nước cơm. Ngày 2 lần.
Phụ nữ đau bụng dưới (đau phần phụ) như kim châm: Hạt vải thái phiến như trên, sao đen, đại hồi vi sao đồng lượng (4-8g) tán bột mịn, uống với rượu ấm, ngày 3 lần. Uống nhiều ngày cho tới khi hết các triệu chứng.
Sán khí ở nam giới (thoát vị bẹn, viêm đau tinh hoàn): Hạt vải chế biến như trên, sao vàng, tiêu hồi (sao qua), quất hạch (hạt quýt) sao vàng.
Cả 3 vị đồng lượng, tán bột mịn, uống với nước ấm, ngày 2-3 lần, mỗi lần 6-8g.
Trẻ em theo tuổi giảm liều.
Cũng có thể chỉ dùng riêng hạt vải đốt thành than, hòa vào rượu uống, với liều 4-6g. Hoặc lấy hạt vải đã chế biến theo cách trên, trần bì, đồng lượng 10g, sao vàng, lưu huỳnh 3g. Dùng dưới dạng bột mịn. Chia 2 lần uống trong ngày.
Tiêu chảy do tỳ hư: Quả vải 7 quả, đại táo 5 quả. Sắc lấy nước uống nhiều lần trong ngày.
Trị nấc: Quả vải 7 quả, gừng tươi 6g, đường đỏ 4g. Sắc uống.
Răng sưng đau: Quả vải xanh, thêm ít muối ăn hoặc đốt tồn tính, tán mịn, xát vào chân răng.