Châu Á lúng túng vì năng lượng

Hà Anh 06/07/2022 08:59

Giá năng lượng toàn cầu đang làm nhiều nước châu Á lúng túng. Dù mỗi quốc gia đều phải đối mặt với một số vấn đề riêng, nhưng tất cả đều bị ảnh hưởng bởi tác động kép của đại dịch Covid-19 và xung đột ở Ukraine - hai sự kiện không thể lường trước đã làm nổi bật những giả định trước đây về an ninh nguồn cung.

Áp lực từ việc tăng giá năng lượng đang đè nặng ngân sách của nhiều gia đình châu Á. Ảnh: Reuters.

Tăng cường tiết kiệm năng lượng

Ở Sri Lanka, mọi người xếp hàng dài nhiều km để cố gắng đổ đầy bình nhiên liệu. Tại Bangladesh, các cửa hàng đóng cửa lúc 8h tối để tiết kiệm năng lượng. Tại Ấn Độ và Pakistan, tình trạng mất điện buộc các trường học và các cơ sở kinh doanh phải đóng cửa, đồng thời người dân sống trong cảnh ngột ngạt khi không có điều hòa trong những đợt nắng nóng chết người, nhiệt độ lên tới 37 độ C.

Đây chỉ là một số hình ảnh nổi bật đang diễn ra ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi các quốc gia đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng năng lượng tồi tệ nhất trong nhiều năm trở lại đây và vật lộn với sự bất ổn ngày càng tăng do chi phí sinh hoạt tăng nhanh.

Giống như người dân ở Pakistan và Bangladesh, người Australia hiện đang được khuyến khích tiết kiệm năng lượng, khi Bộ trưởng Năng lượng Chris Bowen gần đây đã yêu cầu các hộ gia đình ở New South Wales, bao gồm cả Sydney, không sử dụng điện trong hai giờ mỗi tối.

Pakistan cũng đã phải giảm ngày làm việc trong tuần, từ sáu ngày xuống còn năm ngày, mặc dù điều đó có thể chỉ khiến tình hình tồi tệ hơn. Bởi chính sách sáu ngày làm việc trong tuần chỉ mới được giới thiệu gần đây, được cho là sẽ cải thiện năng suất và thúc đẩy nền kinh tế.

Thay vào đó, tình trạng mất điện kéo dài hàng giờ đồng hồ đã ảnh hưởng đến đất nước 220 triệu dân trong ít nhất 1 tháng. Các trung tâm thương mại cũng như nhà hàng ở thành phố lớn nhất Pakistan Karachi được yêu cầu đóng cửa sớm để tiết kiệm nhiên liệu.

Ở những nơi khác trong khu vực, các dấu hiệu của rắc rối có thể ít rõ ràng hơn nhưng vẫn có thể gây ra những hậu quả sâu rộng. Ngay cả ở các quốc gia tương đối giàu có, chẳng hạn như Australia, những lo ngại về kinh tế đang bắt đầu xuất hiện khi người tiêu dùng cảm thấy sức ép từ các hóa đơn năng lượng cao hơn.

Và bất kỳ quan điểm nào cho rằng, những vấn đề như vậy chỉ là nghiêm trọng đối với các quốc gia nghèo hơn, kém phát triển hơn đều bị xua tan khi nhìn vào Australia. Kể từ tháng 5/2022, Australia đã hoạt động mà không có 25% công suất năng lượng dựa vào than đá - một phần do kế hoạch ngừng hoạt động để bảo trì, nhưng cũng do gián đoạn nguồn cung và giá cả tăng cao đã gây ra tình trạng ngừng hoạt động ngoài kế hoạch.

Nhưng kinh nghiệm của Ấn Độ, nơi nhu cầu điện gần đây đạt mức cao kỷ lục, là minh họa rõ ràng nhất cho câu hỏi tại sao đây là một cuộc khủng hoảng toàn cầu chứ không chỉ trong khu vực.

Ngày 28/5, Ấn Độ đã phải chịu đựng tình trạng mất điện trên diện rộng trong bối cảnh nhiệt độ cao kỷ lục. Trong khi đó, chính phủ nước này thông báo rằng, lần đầu tiên kể từ năm 2015, công ty Than Ấn Độ do nhà nước điều hành sẽ phải nhập khẩu than.

“Gốc rễ” của vấn đề

Trong khi giá nhập khẩu năng lượng đã tăng đột biến trên toàn thế giới, với giá than quốc tế cao gấp 5 lần so với một năm trước và giá khí đốt tự nhiên cao gấp 10 lần so với năm ngoái, các chuyên gia cho rằng, có lý do khiến một số nền kinh tế châu Á đang phát triển- đặc biệt là những nước phụ thuộc vào nhập khẩu - bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Ông Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng tại Moody's Analytics cho biết: "Khi một quốc gia nào đó, đặc biệt là một nền kinh tế mới nổi như Sri Lanka phải nhập khẩu nhiều mặt hàng, trong đó có dầu và khí đốt tự nhiên, họ phải trả nhiều tiền hơn cho những thứ họ cần, nhưng những thứ họ bán lại không tăng giá”.

Ông Antoine Halff, trợ lý nghiên cứu cấp cao về chính sách năng lượng tại Trung tâm Toàn cầu của Đại học Columbia, cho biết, các quốc gia đang phát triển hoặc mới công nghiệp hóa ít có khả năng cạnh tranh với các đối thủ có túi tiền “to” hơn. Càng cần nhập khẩu nhiều thì vấn đề của họ càng lớn”.

Dù mỗi quốc gia đều phải đối mặt với một số vấn đề riêng, nhưng tất cả đều bị ảnh hưởng bởi tác động kép của đại dịch Covid-19 và xung đột ở Ukraine - hai sự kiện không thể lường trước đã làm nổi bật những giả định trước đây về nguồn cung và an ninh khu vực. Quá trình này đã đẩy kế hoạch kinh tế thế giới vào hỗn loạn.

Về “gốc rễ”, các chuyên gia cho rằng, vấn đề nằm ở sự không phù hợp ngày càng tăng giữa cung và cầu.

Trong vài năm qua, đại dịch khiến nhu cầu năng lượng ở mức thấp bất thường, với mức tiêu thụ điện toàn cầu giảm hơn 3% trong quý đầu tiên của năm 2020 do các nhà máy đóng cửa và các hạn chế khác khiến người lao động phải ở nhà, ô tô ít ra đường và tàu hàng bị mắc kẹt trong các cảng. Nhưng giờ đây, khi các quốc gia bắt đầu đẩy lùi đại dịch, nhu cầu về nhiên liệu đang tăng vọt, sự cạnh tranh bất ngờ đang đẩy giá than, dầu và khí đốt lên mức cao kỷ lục.

Bà Samantha Gross - Giám đốc Sáng kiến An ninh Năng lượng và Khí hậu của Viện Brookings, cho biết: “Nhu cầu năng lượng đã phục hồi khá nhanh sau đại dịch Covid-19, thậm chí nhanh hơn so với nguồn cung. Vì vậy, chúng ta đã chứng kiến mức giá cao ngay cả trước khi Nga mở chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine, nhưng sau đó, thực sự là một cú sốc đối với nguồn cung năng lượng. Nhiều hành động khác nhau được thực hiện để đối phó với khủng hoảng và nó thực sự là một thách thức đối với việc cung cấp năng lượng trên toàn cầu".

Vấn đề lớn ở phía trước

Cách các quốc gia châu Á phản ứng có thể gây ra một vấn đề còn lớn hơn cả việc tăng giá năng lượng. Dưới áp lực của công chúng, các chính phủ và chính trị gia có thể bị cám dỗ quay trở lại với các dạng năng lượng rẻ hơn, bẩn hơn như than đá, bất kể ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Và có những dấu hiệu điều này có thể đã bắt đầu.

Tại Australia, Ủy ban An ninh Năng lượng của chính phủ liên bang đã đề xuất, tất cả các máy phát điện, bao gồm cả các máy đốt than, phải được trả tiền để duy trì thêm công suất trong lưới điện quốc gia nhằm ngăn chặn tình trạng mất điện.

Chính quyền bang New South Wales đã sử dụng quyền hạn khẩn cấp để chuyển hướng than từ các mỏ trong bang tới các máy phát điện địa phương thay vì tới nước ngoài. Cả hai biện pháp đều vấp phải sự chỉ trích từ những người cáo buộc chính phủ phản bội cam kết về năng lượng tái tạo.

Tại Ấn Độ, quốc gia 1,3 tỷ dân, phụ thuộc vào khoảng 70% năng lượng than, quyết định tăng nhập khẩu than để phục vụ cho nhu cầu của New Delhi có thể còn gây ra những ảnh hưởng sâu sắc hơn đến môi trường.

Ông Sandeep Pai, Trưởng nhóm nghiên cứu cao cấp Chương trình Năng lượng của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế cho biết, việc giảm mạnh khai thác than là cần thiết để hạn chế tác động tồi tệ nhất của hiện tượng ấm lên toàn cầu, tuy nhiên điều này sẽ khó đạt được nếu không có sự mua lại của một trong những quốc gia phát thải carbon lớn nhất thế giới.

Trong khi ông Pai cho rằng, quyết định của Ấn Độ có thể chỉ là một "phản ứng tạm thời đối với cuộc khủng hoảng", nhưng nếu trong một hoặc hai năm tới, các nước tiếp tục dựa vào than thì điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến cuộc chiến chống lại sự nóng lên toàn cầu.

"Nếu những hành động này xảy ra, nó sẽ ngốn ngân sách carbon vốn đang thu hẹp ở Ấn Độ và mục tiêu 1,5 hoặc 2 độ sẽ ngày càng trở nên khó khăn" - ông Pai nói khi đề cập đến mục tiêu của Thỏa thuận khí hậu Paris là giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu từ 1,5 đến 2 độ C.

Các nhà khoa học cho rằng, nếu sự gia tăng nhiệt độ vượt quá phạm vi đó, dù chỉ là tạm thời sẽ dẫn đến một số thay đổi không thể đảo ngược đối với hành tinh.

Hà Anh